Bị người khác xúc phạm đến danh dự nhân phẩm phải làm thế nào? Bị người khác làm nhục nhưng không có bằng chứng có tố cáo được không?
Tóm tắt câu hỏi:
Nếu có người xúc phạm danh dự nhân phẩm của một người khác nhưng theo kiểu dựng chuyện vu cáo là người đó ăn cắp rồi đồn thổi cho nhiều người một cách ném đá giấu tay, đồng thời đặt ghi âm quanh nhà người đó với mục đích nghe lén bí mật đời tư của người ta, để cắt ghép, xào nấu dựng chuyện không thành có tiếp tục bêu rếu mà người bị hại không hề có bằng chứng xác thực để chứng minh là mình bị người kia hại thì có được kiện không thưa luật sư??
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Căn cứ pháp lý
– Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
– Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung 2009.
2. Giải quyết vấn đề
Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.
Về trách nhiệm hình sự
Theo quy định của pháp luật thì người nào có hành vi bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa dặt nhằm xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì tùy theo mức độ vi phạm có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Điều 121 Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung 2009 về tội làm nhục người khác khi có đủ các yếu tố sau:
Làm nhục người khác, được hiểu là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩn, danh dự của người khác.
Tội làm nhục người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý, xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác.
Các yếu tố cấu thành tội làm nhục người khác.
Mặt khách quan
Mặt khách quan là một trong bốn yếu tố cấu thành tội làm nhục người khác. Mặt khách quan của tội này được thể hiện qua hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác dưới hình thức sau:
+ Thể hiện bằng lời nói: Như sỉ nhục, thóa mạ, chửi bới một cách thô bỉ, tục tĩu…nhằm vào nhân cách, danh dự, với tính chất là hạ thấp nhân cách, danh dự của người bị hại, đồng thời làm cho người bị hại cảm thấy xấu hổ, nhục nhã trước những người khác.
+ Thể hiện bằng việc làm: Như có những hành vi lột trần truồng nạn nhân, nhổ nước bọt vào mặt, ném phân, cà chua, trứng thối vào người, xe cộ…(có hoặc không kèm theo lời nói thô tục) với chính bản thân mình hoặc người bị hại trước đám đông để bêu riếu.
Đặc trưng của tội này là thường diễn ra công khai, trực tiếp và trước nhiều người, có thể thực hiện công khai trước mắt người đó hoặc vắng mặt nạn nhân nhưng người phạm tội có ý thức để cho nạn nhân biết việc lăng nhục đó vì động cơ cá nhân. Sự xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác phải là các hành xúc phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của người khác, nghĩa là hành vi trên phải gây ra ảnh hưởng xấu ở mức độ nhất định đến nhân phẩm, danh dự của người bị hại (như lột trần truồng người bị hại ở chỗ đông người, cạo đầu bôi vôi phụ nữ…) thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Việc đánh giá mức độ nghiêm trọng của hành vi phải căn cứ vào thái độ, nhận thức của người phạm tội; cường độ và thời gian kéo dài của hành vi; vị trí và môi trường xung quanh; vị thể, vai trò của người bị hại trong gia đình, tổ chức cũng như trong xã hội; dư luận xã hội về hành vi lăng nhục đó. Tội phạm được hoàn thành kể từ thời điểm người phạm tội có lời nói hoặc hành động xúc phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm người khác. Tội làm nhục người khác là tội phạm mà pháp luật hình sự quy định có cấu thành hình thức. Tội phạm được coi là hoàn thành từ khi người phạm tội có lời nói hoặc hành động xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác. Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của tội làm nhục người khác.
+ Người phạm tội quy định ở khoản 1 Điều này chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi người bị hại có yêu cầu khởi tố hình sự. Nếu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm hình sự, người bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố thì vụ án bị đình chỉ.
+ Nếu hành làm nhục người khác dẫn đến nạn nhận tự sát thì đó được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Nếu nạn nhân có quan hệ lệ thuộc vào người phạm tội mà do hành vi làm nhục dẫn đến nạn nhân tự sát thì người phạm tội không bị truy cứu về tội làm nhục người khác mà tội bức tử (Điều 100 BLHS).
Khách thể
Công dân Việt Nam có quyền bất khả xâm phạm về thân thể và được pháp luật bảo về về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự. Tôn trọng và bảo vệ danh dự, nhân phẩm của mỗi công dân là trách nhiệm của mỗi người.
Làm nhục người khác là hành vi của một người dùng lời nói hay hành động làm ảnh hưởng nghiêm trọng nhân phẩm, danh dẹ của người khác. Hành vi phạm tội trên xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của người khác.
Mặt chủ quan
Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý, người phạm tội biết rõ hành vi của mình là hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác nhưng đã thực hiện hành vi phạm tội. Người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội với mong muốn cho người bị hại bị nhục với nhiều động cơ khác nhau, như để trà thì, có thể trả thù chính người bị hại hoặc cũng có thể trả thù người thân của người bị hại, để thoài mãn thú vui xác thịt…Động cơ, mục đích không phải dấu hiệu bắt buộc của tội làm nhục người khác.
Chủ thể
Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển hành vi đó. Đối với tội làm nhục người khác, người có năng lực trách nhiệm hình sự được hiểu là người có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm danh dự của người khác và có khả năng điều khiển hành vi đó.
Hành vi được coi làm phạm tội làm nhục người khác khi đồng thời thỏa mãn 4 cấu thành trên.
Về trách nhiệm hành chính
Nếu không có đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì sẽ bị xử phạt hành chính tại Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP là phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng khi có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu nghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác.
Về trách nhiệm dân sự
Ngoài ra, người có hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác phải bồi thường thiệt hại khi bị xâm hại danh dự nhân phẩm, uy tín theo quy định tại Điều 592 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm:
– Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;
– Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;
– Thiệt hại khác do luật quy định.
– Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
Do thông tin bạn cung cấp không rõ ràng về thông tin mà người khác có hành vi bịa đặt hay không nên cần phải xác định rõ thông tin đó khi bạn khởi kiện người đó thì phải cung cấp chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự như sau:
” Điều 6. Cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự
1. Đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ, chứng minh như đương sự.
2. Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ và chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật này quy định.”
Do đó, nếu bạn muốn khởi kiện người mà bạn cho là vu khống bạn thì kèm theo đơn khởi kiện bạn phải đưa ra được những bằng chứng, chứng cứ,chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ như bang ghi âm, ghi hình, có ai làm chứng hay không.. khi đó thì tòa án mới có thể tin tưởng lời nói của bạn và căn cứ vào đó để tiến hành giải quyết vụ việc. Trường hợp bạn không đưa ra được những chứng cứ chứng minnh mà cứ kết tội họ thì bạn còn có thể bị chính họ kiện lại ra tòa với tội xúc phạm, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác.
Như vậy, nếu bạn muốn khởi kiện người vu khống mình thì bạn nên thu thập các chứng cứ, bằng chứng có liên quan đến vụ việc. Sau khi có đầy đủ bằng chứng thì bạn có thể viết đơn khởi kiện gửi đến cơ quan có thẩm quyền để giải quyết theo quy định của pháp luật.
Bạn cũng có thể tham khảo thêm thông tin các dịch vụ tư vấn về luật dân sự của chúng tôi:
- Tư vấn pháp luật dân sự trực tuyến miễn phí qua tổng đài điện thoại
- Luật sư tư vấn pháp luật dân sự trực tuyến qua email, bằng văn bản
- Luật sư tư vấn luật dân sư tại văn phòng và tại nơi khách hàng yêu cầu
- Các dịch vụ Luật sư tư vấn - tranh tụng uy tín khác của Luật Dương Gia!
Trân trọng cám ơn!