Cách xác định tỷ lệ thương tật khi bị người khác đánh. Người bị đánh gãy 1 răng, rạn xương mặt, mặt bị tụ máu bầm thì giám định thương tật khoảng bao nhiêu %?
Tóm tắt câu hỏi:
Luật sư cho hỏi đánh người bị gãy 1 răng, rạn xương mặt, mặt bị tụ máu bầm thì giám định thương tật khoảng bao nhiêu %. Nếu xử phạt sẽ vào khoản mấy, khi đánh không có hung khí gì cả?
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Căn cứ pháp lý
– Thông tư liên tịch 28/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH
2. Giải quyết vấn đề
Do bạn không cung cấp thông tin là bạn đánh nhau với ai ?, bên nào có lỗi, gãy răng số mấy, hai bên thỏa thuận về vấn đề bồi thường gì chưa? cơ quan có thẩm quyền đã giải quyết hay chưa?
Về nguyên tắc đển xác định tỉ lệ thương tật thì phải căn cứ vào kết luận giám định của cơ quan có thẩm quyền để xác định chính xác tỉ lệ thương tật là bao nhiêu. Tuy nhiên, với trường hợp của bạn không có kết luận của cơ quan có thẩm quyền thì có thể tham khảo Bảng tổn thương cơ thể do thương tích ban hành kèm theo Thông tư liên tịch 28/2013/TTLT-BYT-BLĐTBXH ngày 27 tháng 9 năm 2013 của Bộ Y tế và Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội để xác định:
* Về trách nhiệm dân sự về bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm như sau:
Theo quy định của pháp luật hiện hành tại Điều 590, Bộ luật dân sự năm 2015 thì nếu hành vi vi phạm của bên gây thiệt hại có đủ các yếu tố sau thì bên gây thiệt hại có nghĩa vụ phải bồi thường cho người bị thiệt hại khi:
– Có hành trái pháp luật.
– Có thiệt hại thực tế xảy ra.
– Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra.
– Có lỗi (cố ý hoặc vô ý).
Những khoản mà bên gây thiệt hại phải bồi thường gồm:
– Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
– Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
– Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.
Người xâm phạm sức khoẻ của người khác phải bồi thường thiệt hại còn phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần của người bị thiệt hại. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.
Do đó, hai bên có thể tự thỏa thuận về mức bồi thường do thiệt hại bị xâm phạm, nếu không thỏa thuận được thì có thể yêu cầu tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
* Về trách nhiệm hành chính như sau:
Đối với trường hợp nếu chưa đến mức truy cứu trách nhiệm thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị định 167/2013/NĐ-CP. Theo đó, với mỗi hành vi thực hiện sẽ bị xử phạt như sau:
“Điều 5. Vi phạm quy định về trật tự công cộng
2. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau;
b) Báo thông tin giả đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
c) Say rượu, bia gây mất trật tự công cộng;
d) Ném gạch, đất, đá, cát hoặc bất cứ vật gì khác vào nhà, vào phương tiện giao thông, vào người, đồ vật, tài sản của người khác;
đ) Tụ tập nhiều người ở nơi công cộng gây mất trật tự công cộng;
e) Để động vật nuôi gây thiệt hại tài sản cho người khác;
g) Thả diều, bóng bay, chơi máy bay, đĩa bay có điều khiển từ xa hoặc các vật bay khác ở khu vực sân bay, khu vực cấm; đốt và thả “đèn trời
h) Sách nhiễu, gây phiền hà cho người khác khi bốc vác, chuyên chở, giữ hành lý ở các bến tàu, bến xe, sân bay, bến cảng, ga đường sắt và nơi công cộng khác.”
Dựa vào căn cứ trên, bên bị thiệt hại có thể yêu cầu bên phía công an đưa ra căn cứ xử phạt, biên bản xử phạt để đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
* Về trách nhiệm hình sự như sau:
Nếu như cố ý gây thương tích còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 104, Bộ luật hình sự năm 1999 khi có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm như sau:
Khi xác định sự cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác cần dựa trên tình tiết khách quan của vụ án, kết hợp với việc xem xét nhân thân người phạm tội.Trên cơ sở phân tích tất cả các tình tiết một cách biện chứng để rút ra ý thức chủ quan của người phạm tội đối với hậu quả thực tế đã xảy ra. Thực tiễn cho thấy muốn xác định được ý thức của người phạm tội các cơ quan tiến hành tố tụng ( Công an, Kiểm sát, Tòa án) đã căn cứ vào các tình tiết như: hành vi khách quan của tội phạm, phương tiện mà người phạm tội lựa chọn, vị trí trên cở thể mà người phạm tội lựa chọn để tấn công, mức độ nguy hiểm của hành vi, thương tích trên cở thể nạn nhân( hậu quả của tội phạm), mâu thuẫn giữa bị cáo và nạn nhân , ý chí chủ quan của người thực hiện hành vi phạm tội, chủ thể thực hiện, khách thể bị xâm phạm…
Thứ nhất: Mặt khách quan của tội phạm
– Hành vi khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, thể hiện nhận thức và điều khiển hành vi của người phạm tội mong muốn gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác.
– Công cụ, phương tiện sử dụng
Nếu người phạm tội sử dụng các phương tiện có tính nguy hiểm cao như: lựu đạn, súng, chất nổ, dao găm… phần nào đó có thể xác định người phạm tội mong muốn cho nạn chết. Ngược lai, nếu người phạm tội không lựa chọn hoặc chỉ lựa chọn loại phương tiện ít nguy hiểm đến tính mạng thì phần nào không mong muốn nạn nhân chết. Vì vậy, dựa vào việc người phạm tội sử dụng công cụ, phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội có thể xác định được là người phạm tội mong muốn giết người hay đơn thuần chỉ gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe.
– Vị trí trên cơ thể mà người phạm tội gây ra thương tích , tổn hại sức khỏe.
Trên thực tế khi muốn tước đoạt sinh mạng của ai đó thì người phạm tội sẽ tấn công vào những nơi xung yếu trên cơ thể như: vùng đầu, vùng ngực, vùng cổ, vùng bụng…kết hợp việc sử dụng công cụ, phương tiện nếu là công cụ, phương tiện ít nguy hiểm, cùng với việc tấn công vào những nơi được coi là không xung yếu trên cơ thể, có thể xác định là hành vi cố ý gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe mà không phải là hành vi giết người.
– Mức độ nguy hiểm của hành vi tấn công
Xác định hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe dựa vào mức độ tấn công với cường độ mạnh hay yếu cùng với vị trí tấn công trên cơ thể xem hành vi đó có dồn dập và cường độ tấn công mạnh không? Nếu cường độ tấn công không mạnh và những vị trí tấn công không xung yếu, không nhằm tước đi sinh mạng của nạn nhân, khi đó sẽ không xác định là hành vi giết người mà là hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác.
– Hậu quả của tội phạm
Hậu quả của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác thể hiện ở tỷ lệ thươn tật ( tỷ lệ %) mất sức lao động của nạn nhân.
Thứ hai: Chủ thể của tội phạm
Là người đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho người khác, có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS theo luật định.
Thứ ba: khách thể của tội phạm
Khách thể tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác là quyền được pháp luật bảo vệ về sức khỏe.
Thứ tư: Mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội mong muốn gây ra thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác.
* Về hình phạt:
– Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
+ Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;
+ Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
+ Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
+ Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
+ Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
+ Có tổ chức;
+ Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
+ Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
+ Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
+ Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
– Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
– Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 , thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.
– Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.
Như vậy nếu thương tích của người bị hại do bên có lỗi gây ra và tỷ lệ của thương tật là từ 11% trở lên hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp được quy định từ điểm a đếm điểm k khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 thì nếu người bị hại có yêu cầu khởi kiện nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Bạn cũng có thể tham khảo thêm thông tin các dịch vụ tư vấn về pháp luật hình sự của chúng tôi:
- Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến miễn phí qua điện thoại
- Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua email, bằng văn bản
- Luật sư tư vấn luật hình sự tại văn phòng và tại nơi khách hàng yêu cầu
- Các dịch vụ Luật sư tư vấn - tranh tụng uy tín khác của Luật Dương Gia!
Trân trọng cám ơn!