Đòi lại đất cho mượn không có giấy tờ chứng minh như thế nào? Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai.
Tóm tắt câu hỏi:
Chào luật sư! Cháu có việc này rất mong luật sư giải đáp giúp với ạ. Nhà cô năm của cháu có cho cô bảy mượn mảnh vườn để dựng nhà ở từ năm 2004. Lúc đó vườn có trồng cây xà cừ đã cao quá đầu người rồi vẫn phá Đi vì cô bảy vừa li hôn, đem theo hai đứa con về không có nhà ở. Cô năm thương tình cho mượn đất vườn làm nhà. Nhưng ở được chục năm, cô bảy đi múc đất ở chỗ khác làm nhà ở rồi muốn bán Đi chỗ đất vườn cô năm cho mượn, nói là đất của ông bà để cho chứ không phải đất của cô năm. Trong khi nhà cô năm cách xa nhà ông bà hơn ba trăm mét và không hề liên quan đến đất nhà ông bà. Do lúc cho mượn cô năm cũng chủ quan là người nhà nên không làm giấy tờ cho mượn đất, nay cô bảy có nhà mới rồi muốn đòi lại mảnh vườn mà không được. Vì lòng tham và vô ơn bội nghĩa, cô bảy đi kể xấu cô năm đủ thứ, rằng cô năm muốn cướp đất của cô bảy, k muốn cho cô bảy bán đất bán nhà. Sự việc đã diễn ra được hai ba năm nay và hai nhà vẫn xích mích thường xuyên vì mảnh đất. Không ai biết làm thế nào để giải quyết được. Rất mong quý luật sư giải đáp giúp cháu trong trường hợp này, cô bảy làm thế là đúng hay sai? Và làm thế nào để cô năm lấy lại được mảnh vườn ạ? Cháu xin cảm ơn rất nhiều ạ!
Câu hỏi được biên tập và đăng tải bởi Bộ phận tư vấn về pháp luật đất đai – Phòng trợ giúp pháp lý trực tuyến miễn phí của Công ty Luật TNHH Dương Gia.
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Cơ sở pháp lý
2. Giải quyết vấn đề
Tại Điều 494 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định:
“Hợp đồng mượn tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho mượn giao tài sản cho bên mượn để sử dụng trong một thời hạn mà không phải trả tiền, bên mượn phải trả lại tài sản đó khi hết thời hạn mượn hoặc mục đích mượn đã đạt được.”
Hợp đồng mượn tài sản không bắt buộc phải lập thành văn bản. Theo đó, cô Năm với cô Bảy có thỏa thuận để cho cô Bảy mượn mảnh đất mà không phải trả tiền nên khi không dùng nữa thì cô Bảy phải trả lại cô năm tài sản này. Nghĩa vụ của cô Bảy là phải giữ gìn, bảo quản, không được cho người khác mượn lại nếu không có sự đồng ý của cô Năm và cũng không được chuyển nhượng lại cho người khác căn cứ theo quy định tại Điều 496 Bộ luật này:
“1. Giữ gìn, bảo quản tài sản mượn, không được tự ý thay đổi tình trạng của tài sản; nếu tài sản bị hư hỏng thông thường thì phải sửa chữa.
Không được cho người khác mượn lại, nếu không có sự đồng ý của bên cho mượn.
Trả lại tài sản mượn đúng thời hạn; nếu không có thỏa thuận về thời hạn trả lại tài sản thì bên mượn phải trả lại tài sản ngay sau khi mục đích mượn đã đạt được.
Bồi thường thiệt hại, nếu làm mất, hư hỏng tài sản mượn.
Bên mượn tài sản phải chịu rủi ro đối với tài sản mượn trong thời gian chậm trả.”
Mặt khác, cô Năm là chủ sở hữu của mảnh vườn nên sẽ có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc giấy tờ khác chứng minh quyền sử dụng đất. Chủ sở hữu sẽ có quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt đối với mảnh đất này. Do đó, cô Năm sẽ có toàn quyết định đối với mảnh đất mà không phải là cô Bảy.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 188 Luật đất đai năm 2013:
“1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:
a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này;
b) Đất không có tranh chấp;
c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;
d) Trong thời hạn sử dụng đất.”
thì điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất là phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cô Bảy không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất về mặt pháp lý sẽ không có quyền chuyển nhượng đối với mảnh đất cho người khác. Để lấy lại được mảnh đất thì cô Năm có thể gửi đơn đến Ủy ban nhân dân xã nơi có đất để được giải quyết. Trường hợp hòa giải Ủy ban nhân dân cấp xã không thành thì sẽ được tiến hành theo quy định tại Điều 203 Luật đất đai năm 2013:
“Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:
1. Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;
2. Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây:
a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này;
b) Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự;…”
Theo đó, cô Năm có thể nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp huyện, nếu không đồng ý với quyết định giải quyết của Ủy ban nhân dân huyện thì có quyền khiếu nại lên Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện ra Tòa án nhân dân cấp quận, huyện nơi có mảnh đất. (thời hiệu khởi kiện theo thủ tục tố tụng hành chính là một năm kể từ ngày nhận được quyết định hành chính)
Bạn cũng có thể tham khảo thêm thông tin các dịch vụ tư vấn về pháp luật đất đai - nhà ở của chúng tôi:
- Tư vấn pháp luật đất đai - nhà đất trực tuyến qua tổng đài điện thoại
- Luật sư tư vấn luật đất đai - nhà đất trực tuyến qua email, bằng văn bản
- Luật sư tư vấn luật đất đai tại văn phòng và tại nơi khách hàng yêu cầu
- Các dịch vụ Luật sư tư vấn - tranh tụng uy tín khác của Luật Dương Gia!
Trân trọng cám ơn!