Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý. Các trường hợp giao dịch dân sự bị vô hiệu. Xử lý các giao dịch không có hiệu lực pháp lý như thế nào?
Cuộc sống hiện tại xung quanh ta đã có sự khác biệt so với trước kia rất nhiều. Trước đây ta có thể tự cung tự cấp, rồi dần dần là đem đồ đạc, của cải đổi lấy lẫn nhau, và ở mức cao nhất hiện tại giờ là chúng ta “giao dịch” như mua bán, chuyển nhượng, cho mượn, cho thuê, cầm cố, ký quỹ, thế chấp, đặt cọc,… Việc thực hiện các giao dịch đó dựa trên nhu cầu cung – cầu của mỗi người, mỗi tổ chức nhưng đều đã được pháp luật điều chỉnh. Pháp luật cho phép các cá nhân, tổ chức tự do thỏa thuận các giao dịch dân sự với nhau không hạn chế. Tuy nhiên, xuất phát từ không ít lý do mà nhiều giao dịch vẫn vi phạm các điều khoản cấm của pháp luật dẫn đến hậu quả bị tuyên bố vô hiệu.
Vậy: Giao dịch dân sự là gì? Giao dịch dân sự vô hiệu là gì? Hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu là như thế nào? Chúng ta hãy cũng tìm hiểu rõ hơn trong bài viết này.
1. Giao dịch dân sự là gì?
Điều 116 Bộ luật dân sự 2015 định nghĩa rằng: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
2. Giao dịch dân sự vô hiệu là gì?
Điều 122 Bộ luật dân sự 2015 khẳng định về giao dịch dân sự vô hiệu là: “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác”, nghĩa là giao dịch dân sự vi phạm một trong các yếu tố sau sẽ bị coi là vô hiệu:
- Chủ thể giao dịch phải có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
- Ý chí của chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
- Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội;
- Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong một số trường hợp luật quy định (Như thế chấp bất động sản, chuyển nhượng nhà chung cư,…).
3. Các trường hợp làm giao dịch dân sự vô hiệu
Thứ nhất, giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm xã hội, trái đạo đức xã hội
Điều 123 Bộ luật dân sự 2015 quy định Giao dịch dân sự có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.
Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
Ví dụ như: Ông bố thỏa thuận với người con “Bố sẽ cho con mảnh đất nhưng với điều kiện con phải đuổi đánh vợ con con ra khỏi nhà này”, vậy việc đuổi đánh vợ con là hành vi vi phạm đạo đức, vi phạm điều cấm của pháp luật, cho nên, giao dịch tặng cho đất sẽ vô hiệu.
Thứ hai, giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo
Điều 124 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo bị vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của bộ luật này.
Trong trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu.”
Trong thực tế ta cần phải xác định đủ cả hai vế của quy định là có sự giả tạo và có sự trốn tránh nghĩa vụ. Nếu chỉ có 1 vế thì chưa thể quy kết giao dịch vô hiệu.
Ví dụ: Bà A vay nợ của B số tiền 1 tỷ. Bà đã kí giấy vay nợ và đồng ý bán đứt căn nhà cho B để trả nợ. Ngày sau đó, bà A lại bán căn nhà này cho C. Như vậy, hợp đồng mua bán giữa bà A với C sẽ không bị vô hiệu do giả tạo hay trốn tránh nghĩa vụ, bởi sau khi bán nhà cho C, bà A vẫn trả tiền nợ cho B nên không bị coi là trốn tránh nghĩa vụ. Nếu như sau khi bán nhà xong bà A vẫn không chịu trả tiền nợ cho B thì hợp đồng mua bán giữa A và C mới bị coi là vô hiệu do giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với B.
Thứ ba, giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện; Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình
Người không có năng lực hành vi dân sự hoặc có hành vi không đầy đủ không thể có đủ điều kiện để tự do thể hiện ý chí, ý nguyện. Vì vậy giao dịch của họ phải được xác lập dưới sự kiểm soát cảu người khác hoặc do người khác xác lập. Tuy nhiên giao dịch của những người này không mặc nhiên bị coi là vô hiệu mà chỉ vô hiệu khi có yêu cầu của người đại diện cho họ.
Thứ tư, giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn
Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi nội dung của giao dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu.
Tuy nhiên trong thực tế khi áp dụng chế định này thì xuất hiện không ít bất cập về khái niệm “nhầm lẫn” hay nguyên nhân gây nhầm lẫn. Và thực tế, nếu một bên do lỗi cố ý làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của giao dịch thì được giải quyết theo giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối.
Ví dụ: A bán cho B một xe Dream Thái. Cả 2 đã cùng nghĩ xe Dream Thái này là thật nên định giá nó là 500 triệu. Sau đó, cả 2 mới biết đây không phải xe dream Thái thật. Ở đây 2 bên đều nhầm lẫn.Vì vậy giao dịch này không bị vô hiệu do nhầm lẫn.
Thứ năm, giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép
Điều 127 BLDS 2015, khi một bên tham gia giao dịch do bị lừa dối, đe dọa thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó bị vô hiệu.
Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.
Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình.
Để có thể xem xét một hành vi có phải là sự lừa dối trong giao kết hợp đồng hay không người ta căn cứ vào các yếu tố sau đây: Một là, phải có sự cố ý đưa thông tin sai lệch hoặc bỏ qua sự thật của một bên, Hai là, người nghe phải không biết đến sự sai lệch đó. Ba là, người nghe đã tin vào sự sai lệch do một bên đưa ra mà giao kết hợp đồng. Và bốn là, phải có thiệt hại xảy ra.
Thứ sáu, giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức (Điều 129 BLDS 2015)
Hình thức phổ biến nhất trong giao dịch dân sự là giao dịch bằng lời nói. Trong thực tế loại giao dịch này được thực hiện ngay và chấm dứt ngay sau đó, thường áp dụng với những tài sản có giá trị không lớn.
Hình thức giao dịch bằng văn bản thường áp dụng với những tài sản có giá trị lớn. Nội dung của giao dịch được ghi rõ trong văn bản, có chữ kí của các bên tham gia. Trong trường hợp pháp luật quy định phải có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng kí xin phép thì phải tuân theo các quy định đó.
Theo nguyên tắc chung, các chủ thể được tự do lựa chọn hình thức của giao dịch. Chỉ những giao dịch, hợp đồng pháp luật quy định bắt buộc phải thể hiện bằng văn bản, phải có chứng nhận, chứng thực…mà các bên không tuân thủ mới bị vô hiệu.
4. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu?
- Khi giao dịch vô hiệu thì quyền và nghĩa vụ của các bên không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Nếu hợp đồng chỉ mới xác lập mà chưa thực hiện thì các bên không được phép thực hiện, còn trường hợp đang thực hiện thì không tiếp tục thực hiện nữa, nếu hợp đồng đã thực hiện thì các bên xử lí tài sản. Như vậy, giao dịch dân sự vô hiệu không làm pháp sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao kết.
- Các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, khôi phục lại tình trạng ban đầu. Nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì hoàn trả bằng tiền. Về quy định tính thành tiền để hoàn trả trong trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật.bộ luật quy định như vậy nhưng không nêu rõ khi nào thì “không hoàn trả được bằng hiện vật” và “hoàn trả bằng tiền”.
- Bồi thường thiệt hại khi có thiệt hại xảy ra: Khi giao dịch bị vô hiệu, bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường. Như vậy để buộc một bên bồi thường thì chúng ta phải xác định đủ 2 yếu tố: một là yếu tố có lỗi, hai là thực tế phải tồn tại thiệt hại.
Bạn cũng có thể tham khảo thêm thông tin các dịch vụ tư vấn về luật dân sự của chúng tôi:
- Tư vấn pháp luật dân sự trực tuyến miễn phí qua tổng đài điện thoại
- Luật sư tư vấn pháp luật dân sự trực tuyến qua email, bằng văn bản
- Luật sư tư vấn luật dân sư tại văn phòng và tại nơi khách hàng yêu cầu
- Các dịch vụ Luật sư tư vấn - tranh tụng uy tín khác của Luật Dương Gia!
Trân trọng cám ơn!