Hỏi đáp trách nhiệm hình sự khi có hành vi cố ý gây thương tích cho người khác. Đánh phụ nữ mang thai 8 tháng có bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Tóm tắt câu hỏi:
Tôi bị người khác bôi nhọ danh dự cả gia đình 2 lần và 1 lần bị hành hung thương tích 11% trong khi tôi đang mang thai 8 tháng, Xin hỏi tôi có thể thưa ra toà được không? Và ngươi hành hung tôi sẽ bị phạt như thế nào ?
Câu hỏi được biên tập và đăng tải bởi Bộ phận tư vấn về pháp luật hình sự – Phòng trợ giúp pháp lý trực tuyến miễn phí của Công ty Luật TNHH Dương Gia.
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Căn cứ pháp lý
Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017
2. Giải quyết vấn đề
Trong cuộc sống thường nhật có nhiều tranh chấp phát sinh, nhiều người có xu hướng thỏa thuận để giải quyết nhưng lại có nhiều người dùng vũ lực hay những hành vi không đúng chuẩn mực để giải quyết vấn đề. Người phát sinh tranh chấp với bạn đã lựa chọn cách thức bôi nhọ danh dự gia đình bạn cũng như dùng vũ lực, hành hung bạn để giải quyết vấn đề mâu thuẫn. Vậy bạn cần làm gì khi phải gánh chịu những hậu quả từ hành vi trái pháp luật này của bên kia và hành vi của họ phải gánh chịu những trách nhiệm pháp lý gì?
* Đối với hành vi bôi nhọ danh dự gia đình bạn của người kia:
Tùy theo từng mức độ của việc bôi nhọ danh dự, người kia có thể phải gánh chịu những loại trách nhiệm sau đây:
– Trách nhiệm dân sự:
Căn cứ theo quy định tại Điều 34 Bộ luật dân sự, danh dự, nhân phẩm, uy tín là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.
Bạn và gia đình có quyền khởi kiện ra Tòa án nhân dân cấp quận huyện nơi bên kia cư trú để yêu cầu Tòa án bác bỏ những thông tin mà bên kia đưa ra nhằm bôi nhọ, ảnh hưởng xấu tới danh dự, nhân phẩm, uy tín của gia đình bạn.
Đồng thời, cùng với việc yêu cầu bác bỏ những thông tin này tại Tòa, nếu bên kia có hành vi đăng tải những thông tin đó lên các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội… thì bạn cũng có quyền yêu cầu bên kia gỡ bỏ, cải chính thông tin sai sự thực đó bằng chính phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội mà họ đã đăng tải.
Không chỉ dừng lại ở việc yêu cầu xin lỗi, cải chính công khai, gỡ bỏ thông tin bôi nhọ, gia đình bạn cũng có quyền yêu cầu bên kia bồi thường thiệt hại cho mình do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Các khoản được xem xét bồi thường thiệt hại đối với trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm được quy định tại Điều 592 Bộ luật dân sự bao gồm:
– Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;
– Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;
– Thiệt hại khác.
Bên cạnh đó, Khoản 2 Điều 592 cũng đã quy định, ngoài những khoản bồi thường kể trên, người kia còn phải bồi thường cho gia đình bạn một khoản bù đắp tổn thất tinh thần:
“Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”
Mức lương cơ sở hiện nay được áp dụng là 1.390.000 đồng. Như vậy, mức bồi thường tổn thất tinh thần trước hết sẽ tuân theo thỏa thuận của gia đình bạn với bên kia, trường hợp hai bên không tự thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm tối đa sẽ là 13.900.000 đồng.
– Trách nhiệm hành chính:
Căn cứ quy định tại Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP, hành vi của người kia có thể bị xử phạt như sau:
“1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác;”
Như vậy, đối với hành vi dùng lời nói, hay cử chỉ xúc phạm danh dự, nhân phẩm của gia đình bạn, người kia có thể phải đối mặt với hình thức phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền 200.000 đồng.
– Trách nhiệm hình sự:
Nếu mức độ xâm phạm của người kia là cao độ và việc xử phạt hành chính không đủ tính răn đe thì người này còn có thể bị xem xét về tội vu khống quy định tại Điều 156 Bộ luật hình sự:
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;”
Như vậy, những thông tin mà họ loan truyền, bôi nhọ gia đình bạn trước hết phải là những thông tin sai sự thật. Tội vu khống được thực hiện bởi lỗi cố ý trực tiếp, tức người kia phải nhận thức được hành vi của họ là loan truyền những thông tin sai sự thực, gây ảnh hưởng tới danh dự của gia đình bạn, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra do muốn hướng tới mục đích xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của gia đình bạn.
Khi có đầy đủ chứng cứ chứng minh hành vi này của người đó thì họ có thể bị xem xét phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm theo đúng quy định pháp luật được viện dẫn trên đây.
* Đối với hành vi cố ý gây thương tích cho bạn với thương tật 11% người đó có thể bị xem xét những loại trách nhiệm sau:
– Trách nhiệm hình sự: Người đó đã phạm vào tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự với tình tiết định khung phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ.
Người đó đã có hành vi hành hung bạn. Đối với tội này, yếu tố bắt buộc là yếu tố lỗi cố ý trực tiếp, tức là người đó nhận thức được hành vi hành hung bạn của họ trái pháp luật, gây ảnh hưởng tới sức khỏe và thậm chí là tính mạng của bạn, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả thiệt hại về sức khỏe của bạn xảy ra.
Cùng với tình tiết định khung tăng nặng được áp dụng do khi đó bạn đã mang thai 8 tháng, đã xuất hiện những biểu hiện bên ngoài của một phụ nữ mang thai thời kỳ cuối: bụng to… nên khi phạm tội người đó hoàn toàn có thể biết là bạn có thai nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi.
Từ những phân tích trên, nhận thấy hành vi của người kia có thể bị xử phạt tù từ 02 năm đến 06 theo quy định tại khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự.
– Trách nhiệm dân sự: Bên cạnh việc truy cứu trách nhiệm hình sự, bên kia phải bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm cho bạn nếu bạn có yêu cầu.
Các khoản thiệt hại có thể được bồi thường do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định như sau:
– Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
– Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
– Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;
– Thiệt hại khác.
Ngoài ra, bạn cũng có thể yêu cầu bên kia bồi thường cho bạn một khoản bù đắp tổn thất tinh thần. Mức bồi thường được quy định như sau theo Điều 590 Bộ luật dân sự:
“Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”
Như vậy, trước hết bạn có thể cùng bên kia thỏa thuận mức bồi thường tổn thất tinh thần. Trường hợp không thỏa thuận được, các bên có thể yêu cầu Tòa án giải quyết, mức bồi thường tối đa trong trường hợp này là 69.500.000 đồng.
Tóm lại, với những hành vi của người kia, bạn có quyền trình báo ra cơ quan công an địa phương nơi xảy ra vụ việc để bên kia phải gánh chịu những trách nhiệm pháp lý do nhà nước quy định.
Bạn cũng có thể tham khảo thêm thông tin các dịch vụ tư vấn về pháp luật hình sự của chúng tôi:
- Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến miễn phí qua điện thoại
- Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua email, bằng văn bản
- Luật sư tư vấn luật hình sự tại văn phòng và tại nơi khách hàng yêu cầu
- Các dịch vụ Luật sư tư vấn - tranh tụng uy tín khác của Luật Dương Gia!
Trân trọng cám ơn!