Licence và quy định về sở hữu công nghiệp. Hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu theo pháp luật Việt Nam.
Licence và quy định về sở hữu công nghiệp. Hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu theo pháp luật Việt Nam.
Các loại tài sản hữu hình nói chung, việc sử dụng tài sản đồng nghĩa với việc làm cho giá trị tài sản giảm đi. Tuy nhiên, đối với tài sản trí tuệ, phạm vi và đối tượng sử dụng tài sản càng rộng thì giá trị tài sản càng lớn. Chính vì vậy, Licence quyền sử dụng tài sản trí tuệ là một phương thức dẫn đến sự khai thác có hiệu quả các tài sản đó.
Hợp đồng Licence là việc chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp, giống cây trồng cho phép tổ chứ, cá nhân khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp, giống cây trồng thuộc phạm vi quyền sử dụng của mình.
Hình thức: bằng văn bản được gọi là hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp, giống cây trồng. Đối với các loại quyền sử hữu công nghiệp được xác lập trên cơ sở đăng ký (sáng chế, kiểu dáng công nghiệp…) hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu có hiệu lực theo thỏa thuận giữa các bên, nhưng chỉ có giá trị pháp lý đối với bên thứ 3 khi đã được đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp
Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, Licence là thuật ngữ được sử dụng để chỉ việc chuyển giao quyền sử dụng, khai thác các đối tượng sở hữu trí tuệ. Phương thức chuyển giao quyền sử dụng các đối tượng sở hữu trí tuệ bắt nguồn từ Châu Âu vào khoảng những năm 1960 khi Ủy ban Châu Âu ghi nhận sự tồn tại và hiệu lực của hình thức hợp đồng Licence sáng chế (patent) với cách tiếp cận linh hoạt như những thỏa thuận về đại lý hàng hoá. Ngày nay, Licence được sử dụng phổ biến, đối tượng thoả thuận là quyền sử dụng một nhãn hiệu, một tên tuổi hàng hoá hoặc dịch vụ đang được bảo hộ và lưu thông trên thị trường. Theo hợp đồng, chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép một hoặc một số chủ thể khác sản xuất, xuất nhập khẩu, phân phối sản phẩm gắn nhãn hiệu của mình cho các sản phẩm cùng loại. Như vậy, đồng thời các sản phẩm với nhãn hiệu đã được sử dụng của chủ sở hữu thì các sản phẩm mới của người mua licence cũng được phổ biến và tiêu thụ trên thị trường. Bên mua Licence cũng có thể đề nghị chủ sở hữu nhãn trao toàn bộ quyền sử dụng nhãn hiệu cho mình, nghĩa là bên nhận Licence có độc quyền trong việc sử dụng nhãn hiệu để sản xuất, phân phối, phát triển sản phẩm.
Việc xác lập quyền sở hữu trí tuệ sẽ cho phép doanh nghiệp tiếp cận các thị trường mới thông qua việc cấp Licence sử dụng nhãn hiệu hàng hoá, cấp giấy phép kinh doanh, thành lập liên doanh, hoặc ký kết hợp đồng hợp tác với các công ty khác. Hiện nay, những doanh nghiệp có thể xuất khẩu trực tiếp là rất ít, thay vào đó nhiều doanh nghiệp chọn phương thức ký hợp đồng licence cho các công ty khác để thu phí Licence trọn gói hoặc định kỳ. Hợp đồng Licence này thường bao gồm cả phân chia bí quyết công nghệ cũng như phân chia quyền cho phép sản xuất và bán sản phẩm mới do bên chuyển giao Licence tạo ra. Vì vậy khi đàm phán ký kết hợp đồng Licence, doanh nghiệp cần phải đảm bảo rằng quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến sản phẩm được Licence đã được bảo hộ đầy đủ ở nước của bên nhận Licence và trong hợp đồng phải có điều khoản xác định rõ ai là chủ sở hữu đối với các quyền sở hữu trí tuệ đó. Đặc biệt cần quan tâm tới việc đàm phán về giá trong hợp đồng Licence.
Giá Licence chính là việc xác định giá trị của đối tượng sở hữu công nghiệp trong thời gian chuyển giao. Nói chung, giá Licence và phương thức thanh toán như thế nào đều do các bên thoả thuận. Sự phức tạp và cần thiết đã đặt ra trong phần này là xác định giá trị như thế nào? Yêu cầu cho việc định giá một sản phẩm, dịch vụ là xác định được giá thị trường của chúng. Nhưng với các đối tượng sở hữu công nghiệp thì yếu tố giá thị trường dường như khá trừu tượng. Trong khi đó, tập hợp các yếu tố ảnh hưởng, xác định giá lại quá phức tạp và biến động không cụ thể theo từng giai đoạn cũng như lãnh thổ. Tuy nhiên, chúng ta cần chú ý tới một số yếu tố cơ bản sau: thị trường, sản phẩm sản xuất hoặc ứng dụng Licence, thời hạn bảo hộ hay hợp đồng Licence, độ tuổi hoặc tính mới của đối tượng, dạng Licence, lãnh thổ Licence và môi trường pháp lý, xã hội tại lãnh thổ đó.
Việc chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp (SHCN), hay nói một cách khác là cấp Licence quyền sở hữu công nghiệp (SHCN) là một trong những phương pháp hữu hiệu để chủ sở hữu quyền khai thác quyền này của mình cũng như để bên nhận phát triển công việc kinh doanh của mình dựa trên những lợi thế của quyền sở hữu công nghiệp được Licence.
Thực tế tại Việt Nam, số lượng đối tượng sở hữu công nghiệp được Licence gia tăng trong vào năm gần đây. Theo thống kê của Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam (NOIP), trong các năm 2004, 2005, số đối tượng SHCN được cấp Licence là khoảng hơn 400 mỗi năm, số liệu này trong năm 2006 hơn 500 và trong năm 2007 hơn 1.100.
Các văn bản pháp lý quy định về Licence bao gồm:
– Bộ Luật Dân sự 2015
– Luật Sở Hữu trí tuệ 2005
– Nghị định số 103/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 22 tháng 09 năm 2006, hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ, có hiệu lực từ tháng 10 năm 2006;
– Thông tư số 01/2007/TT-BKHCN của Bộ Khoa học và Công nghệ ngày 14 tháng 02 năm 2007, quy định hướng dẫn thực hiện Nghị định số 103/2006/NĐ-CP, có hiệu lực từ tháng 03 năm 2007.
Theo quy định có một số hạn chế đối với quyền sở được Licence:
+ Quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý và tên thương mại không được Licence;
+ Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu tập thể không được cấp Licence cho tổ chức hoặc cá nhân không phải là thành viên của chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể đó.
Việc cấp Licence quyền sở hữu trí tuệ có thể thực hiện theo hình thức độc quyền hoặc không độc quyền và phải được thể hiện bằng văn bản. Theo qui định, hợp đồng Licence phải bao gồm các điều khoản cơ bản sau:
– Tên và địa chỉ đầy đủ của các bên;
– Căn cứ Licence;
– Loại Licence;
– Phạm vi Licence;
– Thời hạn Licence;
– Giá Licence;
– Quyền và nghĩa vụ của các bên.
Ngoài ra, hợp đồng Licence phải có quy định nghĩa vụ của bên nhận ghi chỉ dẫn lên hàng hóa, bao bì hàng hoá về việc hàng hóa đó được sản xuất theo hợp đồng Licence và hợp đồng Licence sáng chế độc quyền phải có quy định nghĩa vụ của bên nhận sử dụng sáng chế theo các cách thức như được pháp luật qui định đối với chủ sở hữu quyền. Hơn nữa, nếu không có sự cho phép của bên giao được quy định trong hợp đồng Licence, bên nhận không được quyền cấp Licence thứ cấp cho bên thứ ba.
Hợp đồng Licence không được có các quy định (i) cấm bên nhận cải tiến đối tượng sở hữu công nghiệp không phải là nhãn hiệu, và ép buộc bên nhận chuyển nhượng cho bên giao quyền đăng ký hoặc cấp Licence miễn phí cho bên giao quyền SHCN đối với cải tiến đó; (ii) trực tiếp hoặc gián tiếp hạn chế bên nhận nhập khẩu hàng hóa sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ theo hợp đồng Licence để sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp tại lãnh thổ khi bên giao không nắm giữ quyền SHCN tương ứng hoặc không nắm độc quyền nhập khẩu hàng hóa Licence;(iii) ép buộc bên nhận mua tất cả hoặc một tỷ lệ nguyên liệu, thành phần hoặc trang thiết bị từ bên giao hoặc người được chỉ định bởi bên giao ngoại trừ mục địch đảm bảo chất lượng hàng hoá sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ đối bên nhận; và (iv) cấm bên được chuyển quyền khiếu kiện về hiệu lực của quyền sở hữu công nghiệp hoặc quyền chuyển giao của bên chuyển quyền.
Liên quan đến việc đăng ký hợp đồng Licence, qui định rằng hợp đồng Licencecó hiệu lực theo sự thỏa thuận giữa các bên nhưng chỉ có hiệu lực đối với bên thứ ba khi đăng ký tại NOIP. Bất cứ sự sửa đổi, bổ sung hoặc kết thúc sớm hiệu lực của hợp đồng đã đăng ký phải được ghi nhận tại cơ quan này. Hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp mặc nhiên bị chấm dứt hiệu lực nếu quyền sở hữu công nghiệp của bên giao bị chấm dứt.
Đối với quyền sáng chế, Luật Sở hữu trí tuệ cũng có các quy định việc cấp Licence cưỡng bức theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong một số trường hợp có điều kiện. Theo quy định, Licence cưỡng bức phải là loại Licence không độc quyền và bị hạn chế về phạm vi và thời hạn theo mục đích của Licence cưỡng bức. Bên nhận không được chuyển nhượng quyền Licence, trừ trường hợp việc chuyển nhượng cùng với cơ sở kinh doanh của mình không được cấp Licence thứ cấp cho người khác, và bên nhận thanh toán cho chủ sở hữu quyền SHCN một khoản tiền đền bù thỏa đáng tùy thuộc vào giá trị kinh tế của quyền sử dụng đó và không vượt quá 5% giá bán tịnh của sản phẩm được sản xuất theo sáng chế. Giá đến bù có thể được xác định bởi hội đồng định giá có thẩm quyền.
Bộ Khoa học và Công nghệ là cơ quan có thẩm quyền cấp li-xăng cưỡng bức. Trong trường hợp Licence cưỡng bức liên quan đến lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ và dinh dưỡng cho cộng đồng, Bộ Y Tế và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có trách nhiệm phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ trong việc thực hiện hành vấn đề này.
Bạn cũng có thể tham khảo thêm thông tin các dịch vụ tư vấn về pháp luật bản quyền - sở hữu trí tuệ của chúng tôi:
- Tư vấn pháp luật về bản quyền, luật sở hữu trí tuệ trực tuyến miễn phí
- Tư vấn pháp luật về sở hữu trí tuệ trực tuyến qua email, bằng văn bản
- Luật sư tư vấn luật bản quyền, sở hữu trí tuệ trực tiếp tại văn phòng
- Các dịch vụ Luật sư tư vấn - tranh tụng uy tín khác của Luật Dương Gia!
Trân trọng cám ơn!