Muốn phân chia di sản thừa kế phải làm như thế nào? Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế không có chữ ký đầy đủ của người thuộc hàng thừa kế thứ nhất.
Tóm tắt câu hỏi:
Bố mẹ có 2 mảnh đất:1 ông bà đang ở và 1 cho anh trai tôi lấy vợ ở riêng, tháng 5/2008 mẹ mất, tháng 6/2008 bố viết di trúc để lại thừa kế cho tôi mảnh đất và toàn bộ tài sản trên đất ông bà đang ở (nhà ở c4,2 gian bếp và cây cối hoa màu trong vườn). khi đó có bố có cho họp gia đình (nhà tôi có 5 người con,3 chị gái và 2 con trai,các chị đã có gd và ở riêng) khi họp gd tôi không có mặt ở nhà(tôi sống ở nước ngoài)cả 3chị đều đồng ý ký vào biên bản họp,riêng a trai tôi không đồng ý và bỏ đi chỗ khác không dự họp nữa.bố tôi vẫn tiến hành họp và có nhờ 3người hàng xóm,dòng họ làm chứng và xin dấu xác nhận của xã,công chứng thành 5bản(chia cho 5người con mỗi người 1 bản ).năm 2013 bố tôi mất,tôi chưa về kịp anh trai tôi đã cất dấu trích lục thửa đất bố tôi để lại cho tôi và nói là giữ hộ.đồng thời mấy tháng sau tự ý phá toàn bộ nhà,bếp trên mảnh đất bố mẹ tôi ở.đến nay tôi trở về nước và muốn sang tên trích lục sang tên tôi nhưng anh trai tôi nhất quyết không chịu trả lại trích lục.tôi báo lên ubnd xã và xã có gọi lên hòa giải 1 lần nhưng không thành.giờ tôi phải làm gì để lấy lại được tài sản thừa kế?
Câu hỏi được biên tập và đăng tải bởi Bộ phận tư vấn về pháp luật dân sự – Phòng trợ giúp pháp lý trực tuyến miễn phí của Công ty Luật TNHH Dương Gia.
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Căn cứ pháp lý:
2. Nội dung tư vấn:
Việc một cá nhân chết đi, không chỉ làm chấm dứt các quan hệ nhân thân của họ mà còn làm chấm dứt quan hệ về tài sản của họ. Tuy nhiên, nó là căn cứ để phát sinh quyền thừa kế của thân nhân của họ đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết này. Nhưng không phải lúc nào những người thừa kế, những thân nhân của họ cũng thỏa thuận, thống nhất với nhau về vấn đề phân chia thừa kế, mà có thể phát sinh tranh chấp, nhất là đối với những tài sản thừa kế có giá trị lớn như đất đai, nhà ở. Trường hợp của bạn cũng là một ví dụ. Để giải quyết vấn đề này, cần xem xét các phương diện sau:
Thứ nhất, xem xét về việc họp gia đình của gia đình bạn sau khi mẹ bạn chết và việc lập di chúc của bố bạn.
Trước hết, theo thông tin, bố mẹ của bạn có hai mảnh đất: một mảnh do ông bà đang ở, còn một mảnh cho anh trai của bạn lấy vợ riêng. Tháng 5/2008, mẹ của bạn mất. Tháng 6/2008, bố của bạn viết di chúc để lại cho bạn thừa kế đất đai và toàn bộ tài sản trên đất đối với mảnh đất do ông bà đang ở. Khi đó, có họp gia đình và có lập biên bản họp, xin dấu xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã. Tuy nhiên thời điểm họp bạn đang ở nước ngoài còn một người con khác không ký, không đồng ý và đã bỏ đi. Trên cơ sở này, có thể thấy:
- Về việc họp gia đình phân chia di sản thừa kế của gia đình bạn:
Có thể thấy, qua thông tin, mảnh đất được để thừa kế cho bạn thông qua di chúc của bố bạn, tức là mảnh đất mà bố mẹ bạn đang ở được xác định là tài sản chung của bố mẹ bạn. Mẹ bạn đã mất vào tháng 5/2008 và không để lại di chúc. Trường hợp này, nếu căn cứ vào pháp luật hiện hành tại thời điểm mẹ của bạn mất, cụ thể là Điều 675 Bộ luật dân sự năm 2005 thì những tài sản là di sản thừa kế của mẹ bạn sẽ được đưa ra để phân chia thừa kế theo pháp luật. Trong đó, di sản, theo quy định tại Điều 634 Bộ luật dân sự năm 2005, được xác định bao gồm tài sản riêng của người chết và phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác. Điều đó có nghĩa, phần tài sản thuộc về mẹ bạn trong khối tài sản chung là quyền sử dụng đất đối với mảnh đất mà bố mẹ bạn đang ở sẽ được xác định là di sản thừa kế do mẹ bạn để lại trước khi chết.
Trường hợp này, khi mẹ bạn mất đi (tháng 5/2008) mà không để lại di chúc, một nửa giá trị tài sản đối với mảnh đất này là di sản thừa kế mà mẹ bạn để lại sẽ được chia đều thành các phần bằng nhau cho những người thừa kế theo pháp luật của bà theo hàng thừa kế. Trong đó, những người thừa kế theo pháp luật của mẹ bạn được xác định theo quy định tại Điều 676 Bộ luật Dân sự năm 2005, bao gồm:
“Điều 676. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”
Căn cứ theo quy định tại Điều 675, 676 Bộ luật Dân sự năm 2005 được trích dẫn ở trên thì, phần tài sản thuộc về quyền sở hữu của mẹ bạn trong quyền sử dụng đất chung của vợ chồng đối với mảnh đất bố mẹ bạn đang ở sẽ thuộc về những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bà, bao gồm: bố mẹ đẻ của mẹ bạn (ông bà nội của bố bạn – nếu thời điểm mẹ của bạn chết, họ vẫn còn sống), bố bạn và 5 người con (trong đó có bạn).
Theo thông tin, khi mẹ bạn mất, gia đình bạn đã tổ chức họp gia đình. Mặc dù không biết nội dung cuộc họp gia đình này là gì, tuy nhiên, nếu cuộc họp này là cuộc họp để phân chia, định đoạt với tài sản thừa kế của mẹ bạn thì tại cuộc họp đã không có sự tham gia, và không có chữ ký của bạn và một người con của mẹ bạn. Bởi, tại thời điểm đó, bạn đang ở nước ngoài, còn người anh trai của bạn thì không đồng ý với việc phân chia nên không tiếp tục tham gia dự họp. Chính bởi vậy, cuộc họp này đã không có sự tham gia đầy đủ của những người thừa kế của mẹ bạn, và bạn cùng người anh trai đã không tham gia để định đoạt hay quyết định đối với phần tài sản thừa kế mà họ được thừa hưởng. Do vậy, mặc dù bố của bạn vẫn tiến hành họp với 3 người con còn lại, có lập thành biên bản nội dung cuộc họp, nhờ 3 người hàng xóm và dòng họ làm chứng, có xin dấu xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã và công chứng làm thành 5 bản cho 5 người con thì văn bản họp phân chia tài sản thừa kế này cũng không có giá trị pháp lý, bởi nó không thể hiện được sự thống nhất ý kiến của những người thừa kế của mẹ bạn, xâm phạm đến quyền định đoạt tài sản thừa kế của người thừa kế là bạn và anh trai bạn đối với phần tài sản mà hai người có quyền được hưởng thừa kế từ mẹ của bạn.
Trên cơ sở này, có thể khẳng định, biên bản họp hay văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế được lập vào thời điểm tháng 6/2008, sau khi mẹ bạn chết ở trên không có giá trị pháp lý. Phần tài sản là di sản mà mẹ bạn để lại được xác định chưa được phân chia.
- Về vấn đề lập di chúc của bố bạn:
Bố của bạn lập di chúc vào tháng 6/2008. Căn cứ theo quy định của pháp luật hiện hành tại thời điểm này, cụ thể quy định tại Điều 631, Điều 646 Bộ luật Dân sự năm 2005, cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình cho người khác trước khi chết. Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Do vậy, bố của bạn có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản, thể hiện ý chí của mình đối với phần tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người khác. Điều đó cũng có nghĩa, bố của bạn không được định đoạt đối với phần tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác.
Bố của bạn đã lập di chúc để lại mảnh đất mà bố mẹ bạn đang ở cùng toàn bộ tài sản trên đất cho bạn. Trường hợp này, theo Điều 667 Bộ luật Dân sự năm 2005, thì bản di chúc này của bố bạn chỉ có hiệu lực kể từ thời điểm mở thừa kế – tức thời điểm bố của bạn chết. Đồng thời, di chúc này chỉ phát sinh hiệu lực khi di chúc này là một di chúc hợp pháp.
Di chúc của bố bạn được xác định là hợp pháp khi đáp ứng các điều kiện được quy định tại Điều 652 Bộ luật Dân sự năm 2005, như sau:
“Điều 652. Di chúc hợp pháp
1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;
b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.
2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực.”
Đồng thời, khi di chúc của bố bạn được lập thành văn bản, có thể là di chúc bằng văn bản không có người làm chứng hoặc là di chúc bằng văn bản có người làm chứng hoặc di chúc có công chứng hoặc chứng thực thì di chúc của bố bạn ngoài việc đáp ứng quy định tại Điều 652 Bộ luật dân sự năm 2005 còn phải đáp ứng các điều kiện nhất định khác. Cụ thể:
– Đối với di chúc bằng văn bản không có người làm chứng thì căn cứ theo Điều 655 Bộ luật dân sự năm 2005, bố của bạn phải tự tay viết và ký vào bản di chúc. Nội dung di chúc phải ghi rõ các thông tin về ngày, tháng, năm lập di chúc; họ tên và nơi cư trú của người lập di chúc; Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản; di sản để lại và nơi có di sản; việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ. Di chúc không được viết tắt hay viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự, có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.
– Đối với di chúc bằng văn bản có người làm chứng, thì theo quy định tại Điều 656 Bộ luật Dân sự năm 2005, việc lập di chúc về cơ bản phải đáp ứng yêu cầu của một di chúc bằng văn bản thông thường. Tuy nhiên, khi người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc thì có thể nhờ người khác viết, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.
Trong đó, người làm chứng cho việc lập di chúc không được là những người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc hay người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan đến nội dung di chúc, người chưa đủ 18 tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự.
Xem xét việc lập di chúc của bố bạn, bố bạn lập di chúc vào tháng 6/2008 thể hiện sự định đoạt của bố bạn đối với tài sản là mảnh đất mà bố mẹ bạn đang ở và toàn bộ tài sản trên đất. Tuy nhiên, như đã phân tích, mảnh đất này là tài sản chung của bố và mẹ bạn. Mẹ bạn mất vào tháng 5/2008, mặc dù đã thực hiện việc phân chia thừa kế, nhưng văn bản phân chia thừa kế đã lập không có giá trị vì thiếu chữ ký của bạn và người anh trai của bạn. Do vậy, bố của bạn chỉ được lập di chúc với phần tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, tức là phần quyền sử dụng đất và phần tài sản trên đất thuộc quyền sở hữu của bố bạn trong khối tài chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất chung đối với mảnh đất bố mẹ bạn đang ở và toàn bộ tài sản trên đất.
Nhưng trên thực tế, theo thông tin, bố của bạn của bạn lập di chúc để lại thừa kế cho bạn mảnh đất mà hai ông bà đang ở và toàn bộ tài sản trên đất như căn nhà cấp 4, hai gian bếp và cây cối hoa màu trong vườn cho bạn, nhưng bạn không nói rõ, nội dung di chúc được thể hiện cụ thể như thế nào. Do vậy, khi xem xét tính hợp pháp của di chúc mà bố bạn để lại sẽ có hai trường hợp xảy ra:
– Trường hợp 1: Nội dung di chúc của bố bạn định đoạt toàn bộ giá trị quyền sử dụng đất và tài sản trên đất đối với mảnh đất của bố mẹ bạn thuộc về bạn. Trường hợp này, di chúc của bố bạn được xác định là không hợp pháp, bởi bố bạn, như đã phân tích, không có quyền định đoạt đối với toàn bộ mảnh đất và tài sản trên đất này, nên việc bố bạn định đoạt toàn bộ mảnh đất và tài sản trên đất thuộc về bạn đã xâm phạm đến quyền sử dụng, quyền sở hữu hợp pháp của mẹ bạn, của những người thừa kế của mẹ bạn đối với phần tài sản mà mẹ bạn để lại. Di chúc này vi phạm quy định của pháp luật nên sẽ không hợp pháp theo quy định tại Điều 652 Bộ luật dân sự năm 2005 nên sẽ không có hiệu lực để đưa ra phân chia thừa kế.
– Trường hợp 2: Nội dung di chúc của bố bạn chỉ ghi nhận bố bạn định đoạt với phần tài sản quyền sử dụng đất đối với mảnh đất và tài sản trên đất mà không phải toàn bộ tài sản. Trường hợp này, nếu như di chúc của bố bạn được lập trong trạng thái minh mẫn, sáng suốt; hình thức di chúc được thực hiện theo đúng quy định của Điều 652, 655, 656 Bộ luật dân sự năm 2005 được trích dẫn ở trên thì di chúc của bố bạn được xác định là hợp pháp. Trường hợp này, theo quy định tại Điều 667 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì di chúc mà bố bạn lập sẽ có hiệu lực kể từ thời điểm bộ bạn chết và được đưa ra phân chia nếu đây là di chúc hợp pháp cuối cùng mà bố bạn để lại trước khi chết.
Trường hợp, di chúc của bố bạn không đáp ứng điều kiện về mặt hình thức hoặc được lập trong trạng thái không minh mẫn, sáng suốt thì trường hợp này di chúc của bố bạn đã lập không đáp ứng điều kiện của một di chúc hợp pháp được quy định tại Điều 652 Bộ luật dân sự năm 2005, nên di chúc này cũng không có hiệu lực pháp luật.
Thứ hai, xem xét về việc phân chia di sản thừa kế.
Về vấn đề phân chia thừa kế, như đã phân tích, biên bản phân chia di sản thừa kế trong cuộc họp gia đình không có giá trị pháp lý. Còn di chúc do bố bạn lập, do thông tin không nêu rõ nội dung di chúc như thế nào, nên có thể hợp pháp hoặc không hợp pháp. Bố mẹ của bạn đều đã chết, nhưng chết không cùng thời điểm, cụ thể mẹ bạn chết tháng 5/2008, còn bố bạn chết năm 2013. Trong thông tin không nói rõ, ông bà nội – người sinh ra bố bạn, và ông bà ngoại – người sinh ra mẹ bạn còn sống tại thời điểm bố, mẹ của bạn chết hay không. Do vậy, trường hợp này, việc phân chia thừa kế đối với tài sản là quyền sử dụng đất của mảnh đất này và những tài sản trên đất được thực hiện theo trình tự như sau:
- Thực hiện phân chia di sản thừa kế của mẹ bạn để lại.
Theo thông tin, hiện tại bố mẹ bạn chỉ có tài sản là mảnh đất mà ông bà đang ở khi còn sống. Khi mẹ của bạn chết đi, không để lại di chúc, nên một nửa giá trị mảnh đất và các tài sản trên đất sẽ được phân chia di sản thừa kế theo quy định tại Điều 675, 676 Bộ luật Dân sự năm 2005 cho những người thừa kế theo pháp luật của mẹ bạn. Cụ thể tài sản này sẽ được chia đều thành các phần bằng nhau và chia cho bố, mẹ đẻ của mẹ bạn (ông bà ngoại – nếu họ còn sống tại thời điểm mẹ của bạn chết), bố của bạn, và 5 người con của mẹ bạn.
- Thực hiện phân chia di sản thừa kế của bố bạn để lại.
Sau khi thực hiện việc phân chia thừa kế của mẹ bạn thì xác định phần tài sản thừa kế của bố bạn để lại để thực hiện việc phân chia. Di sản thừa kế do bố bạn để lại được xác định bao gồm: một nửa giá trị quyền sử dụng đất, tài sản trên đất đối với mảnh đất này thuộc về quyền sở hữu của bố bạn và phần tài sản mà bố của bạn nhận thừa kế từ di sản của mẹ bạn.
Bố của bạn chết vào năm 2013, thời điểm này vẫn đang áp dụng quy định của Bộ luật dân sự năm 2005. Tuy nhiên, khi bố bạn mất có để lại di chúc, và do thông tin không nêu rõ, nên tùy vào từng trường hợp mà di chúc của bố bạn có thể hợp pháp hoặc không hợp pháp. Do vậy, việc phân chia thừa kế đối với di sản thừa kế của bố bạn cũng sẽ xảy ra hai trường hợp:
– Trường hợp di chúc của bố bạn là hợp pháp, và là di chúc cuối cùng bố bạn để lại trước khi chết thì di sản thừa kế của bố bạn sẽ được định đoạt theo nội dung di chúc, được giao lại và thuộc quyền sở hữu của bạn. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 669 Bộ luật dân sự năm 2005, thì tại thời điểm phân chia thừa kế, một số người vẫn được hưởng phần di sản thừa kế bằng 2/3 suất của một người thừa kế dù họ không được định đoạt trong nội dung di chúc gồm: Con chưa thành niên, con đã thành niên mà không có khả năng lao động, cha, mẹ, vợ, chồng của người mất. Nhưng, trong hoàn cảnh của bố bạn, thì vợ của bố bạn (mẹ bạn) đã mất trước đó, các con đều đầy đủ năng lực hành vi dân sự và đã thành niên. Trường hợp này, nếu ông bà nội (cha, mẹ đẻ của bố bạn) không còn sống tại thời điểm chia thừa kế thì tài sản thừa kế do bố bạn để lại hoàn toàn thuộc về bạn.
Điều đó cũng có nghĩa là sau khi chia thừa kế của cả bố và mẹ bạn, thì bạn sẽ nhận được một phần di sản thừa kế theo pháp luật của mẹ bạn để lại và tài sản thừa kế mà bố bạn để lại.
– Trường hợp di chúc do bố bạn để lại trước khi chết được xác định là không hợp pháp thì trường hợp này, căn cứ theo quy định tại Điều 675, 676 Bộ luật Dân sự năm 2005 được trích dẫn ở trên, thì tài sản là di sản thừa kế do bố bạn để lại sẽ được chia thành các phần bằng nhau cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bố bạn, bao gồm: ông, bà nội của bạn (cha, mẹ đẻ của bố bạn – nếu họ còn sống tại thời điểm bố của bạn chết), và 5 người con của ông. Mẹ của bạn chết trước bố của bạn, nên không được hưởng phần tài sản thừa kế của bố bạn.
Trường hợp này, bạn chỉ nhận được một phần tài sản thừa kế do bố bạn để lại chứ không phải là toàn bộ di sản thừa kế của bố bạn. Sau khi phân chia thừa kế của bố và mẹ bạn thì bạn sẽ nhận được một phần di sản thừa kế theo pháp luật của mẹ bạn để lại và một phần di sản thừa kế theo pháp luật mà bố bạn để lại.
Như vậy, qua phân tích ở trên, có thể khẳng định, tùy vào từng trường hợp mà tài sản bạn nhận được từ việc thừa kế di sản của bố, mẹ bạn để lại sẽ khác nhau, nhưng nhìn chung, bạn sẽ không được thừa hưởng toàn bộ mảnh đất và tài sản trên đất này nếu như một trong những người thừa kế không đồng thuận. Việc phân chia thừa kế có thể do những người thừa kế thỏa thuận với nhau. Trường hợp không thỏa thuận được thì thực hiện việc phân chia tại Tòa án. Mà trong trường hợp của bạn, người anh trai của bạn không đồng ý, không muốn để tài sản này cho bạn. Đồng thời, mẹ bạn chết tháng 7/2008, mặc dù theo quy định tại Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005, đến thời điểm này (tháng 11/2018), đã hết thời hiệu khởi kiện để phân chia thừa kế với tài sản của mẹ bạn nhưng việc phân chia thừa kế trước đó không hợp pháp nên bạn vẫn có quyền khởi kiện để yêu cầu phân chia thừa kế đối với tài sản của mẹ bạn. Còn bố bạn chết vào năm 2013, chưa thực hiện việc phân chia thừa kế nên bạn vẫn chưa hết thời hiệu để phân chia thừa kế. Do vậy, để đảm bảo quyền và lợi ích của mình thì bạn cần phải cần khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu phân chia di sản thừa kế.
Còn đối với hành vi tự ý phá toàn bộ nhà, bếp, là những tài sản trên đất thuộc về bố mẹ bạn thì đây là hành vi trái pháp luật khi phá hoại tài sản của người khác, bạn có quyền tố cáo lên cơ quan công an về hành vi này.
Bạn cũng có thể tham khảo thêm thông tin các dịch vụ tư vấn về luật dân sự của chúng tôi:
- Tư vấn pháp luật dân sự trực tuyến miễn phí qua tổng đài điện thoại
- Luật sư tư vấn pháp luật dân sự trực tuyến qua email, bằng văn bản
- Luật sư tư vấn luật dân sư tại văn phòng và tại nơi khách hàng yêu cầu
- Các dịch vụ Luật sư tư vấn - tranh tụng uy tín khác của Luật Dương Gia!
Trân trọng cám ơn!