Quy định về điều kiện giành quyền nuôi con và phân chia tài sản khi ly hôn. Chồng đi lao động nước ngoài giử tiền về cho vợ giữ ly hôn có được đòi không?
Tóm tắt câu hỏi:
Tôi và chồng kết hôn đã được 3 năm. Chồng tôi đi Nhật Bản làm việc 3 năm và đã về được hơn 1 năm. Chúng tôi đã có một con gái 4 tháng tuổi. Hiện chồng tôi có công việc ổn định và thu nhập 14 triệu VNĐ/1 tháng, còn tôi ở nhà nội trợ Hai vợ chồng hiện sống chung với gia đình chồng và hai vợ chồng chưa có tài sản chung gì. Hiện tôi đang giữ khoảng 400 triệu vnđ tiền chồng tôi đi nhật gửi về cho tôi. Số tiền này tôi gửi tiết kiệm mang tên mình. Cho tôi hỏi là nếu hai vợ chồng tôi ly hôn thì tôi có đủ điều kiện nuôi con không? và số tiền này nếu chồng tôi đòi thì tôi có phải trả lại hết không?
Câu hỏi được biên tập và đăng tải bởi Bộ phận tư vấn về pháp luật hôn nhân – Phòng trợ giúp pháp lý trực tuyến miễn phí của Công ty Luật TNHH Dương Gia.
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Cơ sở pháp lý
– Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
2. Giải quyết vấn đề
Gia đình được coi là tế bào của xã hội, là chiếc nôi để nuôi dưỡng, giáo dục nhân cách của một con người. Xã hội ngày càng hiện đại, cùng với sự phát triển, hội nhập kéo theo những biến đổi về văn hóa, đạo đức xã hội, thay đổi tư duy và quan điểm về hôn nhân gia đình. Hay nói cách khác là mọi người có tư tưởng ” thoáng” hơn trong việc quan hệ tình dục trước hôn nhân, ly hôn, sống chung… Bất kể thay đổi nào đều có mặt tích cực và mặt tiêu cực, và một trong những vấn đề đó là giá trị đạo đức truyền thống trong mỗi gia đình đang dần bị coi nhẹ, tình trạng ngoại tình, ly hôn, ly thân cũng có xu hướng tăng hơn.
Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Quyết định ly hôn được Tòa án đưa ra khi có đủ căn cứ cho rằng:
+ Vợ chồng không còn yêu thương, chăm sóc, tôn trọng nhau, không làm tròn nghĩa vụ của vợ chồng
+ Vợ hoặc chồng không còn chung thủy với nhau, có hành vi ngoại tình, ngược đãi, bạo lực gia đình
Điều đó nghĩa là mục đích của hôn nhân không đạt được, tình nghĩa vợ chồng không còn thì Tòa án sẽ xem xét giải quyết ly hôn. Vấn đề được quan tâm nhất trong các vụ án ly hôn là quyền nuôi con và việc phân chia tài sản.
Vợ chồng bạn kết hôn được 03 năm, có một con gái 4 tháng tuổi và tài khoản tiết kiệm 400 triệu đồng do chồng bạn đi làm tại Nhật gửi về. Khi giải quyết ly hôn thì con cái và tài sản được phân chia như sau:
Thứ nhất, về quyền nuôi con
Căn cứ theo Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định việc trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn:
“Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn
1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”
Về nguyên tắc, khi giải quyết ly hôn, con dưới 36 tháng tuổi sẽ được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp mẹ không đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con. Khi xét đến điều kiện nuôi con, Tòa án dựa trên hai yếu tố sau:
– Điều kiện về tài chính: Người nuôi con có điều kiện kinh tế, có thu nhập hàng tháng, ổn định, có chỗ ở, nơi ở phù hợp với các điều kiện học tập, sinh hoạt của con…
– Điều kiện về nhân thân: Người trực tiếp nuôi con phải có lối sống lành mạnh, không có tiền án tiền sự, không có hành vi vi phạm pháp luật, bạo lực gia đình, có thời gian chăm sóc con…
Nghĩa là, nếu bạn và chồng bạn có điều kiện về tài chính và nhân thân tương đương nhau mà con của bạn 04 tháng tuổi thì Tòa án sẽ giao con cho bạn nuôi, trừ trường hợp vợ chồng bạn có thỏa thuận khác. Hiện tại bạn chưa có công việc ổn định và ở nhà nội trợ, đồng nghĩa với điều kiện tài chính của bạn chưa tốt bằng chồng. Tuy nhiên, nếu bạn có đủ căn cứ chứng minh mình có những nguồn thu nhập khác như sự hỗ trợ từ gia đình bạn, tài sản riêng bạn có…đủ đảm bảo cho việc nuôi con thì quyền nuôi con vẫn thuộc về bạn.
Thứ hai, về việc phân chia tài sản
Tại Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về tài sản chung của vợ chồng như sau:
“Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.”
Theo đó, tài sản được hình thành trong quá trình hôn nhân của hai vợ chồng đều được coi là tài sản chung, bao gồm: tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác. Chồng bạn đi làm tại Nhật và gửi về cho bạn 400 triệu đồng, đây là thu nhập do chồng bạn tạo ra trong thời kỳ hôn nhân. Và mặc dù tài khoản tiết kiệm đứng tên riêng của bạn nhưng vẫn được xác định là tài sản chung của vợ chồng bạn.
Về nguyên tắc giải quyết tài sản chung khi ly hôn quy định tại Điều 59 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, số tiền 400 triệu đồng được chia đôi cho hai vợ chồng bạn, nhưng có tính đến các yếu tố sau:
+ Hoàn cảnh gia đình của vợ, chồng
+ Công sức đóng góp của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Chồng bạn đi Nhật, bạn ở nhà chăm lo công việc gia đình, nội trợ thì cũng được tính là lao động có thu nhập.
+ Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Kết luận, con bạn dưới 36 tháng tuổi, bạn chưa có công việc và thu nhập ổn định nhưng nếu có sự hỗ trợ từ gia đình, tài sản riêng của bạn đủ đảm bảo việc nuôi con thì bạn sẽ là người trực tiếp nuôi con. Về tài sản, số tiền 400 triệu được coi là tài sản chung, khi ly hôn sẽ được chia đôi, có tính đến công sức, đóng góp, tạo lập của mỗi bên.
Bạn cũng có thể tham khảo thêm thông tin các dịch vụ tư vấn về luật hôn nhân và gia đình của chúng tôi:
- Tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình trực tuyến miễn phí qua điện thoại
- Luật sư tư vấn ly hôn, tư vấn giải quyết các tranh chấp khi ly hôn
- Luật sư tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình qua email, bằng văn bản
- Tư vấn luật hôn nhân, tư vấn giải quyết ly hôn trực tiếp tại văn phòng
- Các dịch vụ Luật sư tư vấn - tranh tụng uy tín khác của Luật Dương Gia!
Trân trọng cám ơn!