Quy định về Doanh nghiệp tư nhân. Bản chất pháp lý của doanh nghiệp tư nhân.
Doanh nghiệp tư nhân nói riêng và kinh tế tư nhân nói chung ở Việt Nam được thừa nhận khá muộn so với doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước và các tổ chức kinh tế tập thể. Và được đánh giá là một trong cách hình thức đơn giản và năng động, linh hoạt nhất trong tổng thể bức tranh kinh tế hiện nay. Hệ thống doanh nghiệp tư nhân tại Việt Nam cũng có nhiều đóng góp quan trọng cho nền kinh tế quốc gia, sản lượng công nghiệp của hệ thống doanh nghiệp tư nhân tăng trưởng mạnh và chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng sản lượng công nghiệp. Chúng ta có thể thấy việc phát triển doanh nghiệp tư nhân Việt Nam dưới dự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp 2014 là một vấn đề đáng quan tâm và sau đây là những phân tích về Doanh nghiệp tư nhân.
1. Bản chất pháp lý của doanh nghiệp tư nhân.
Bên cạnh những nét chung của doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân có những nét đặc thù để phân biệt với các loại hình doanh nghiệp khác. Theo quy định tại Điều 183 Luật doanh nghiệp 2014 thì doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Thứ nhất: Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ sở hữu.
Cá nhân Việt Nam, cá nhân nước ngoài thỏa mãn điều kiện luật định đều có quyền thành lập doanh nghiệp tư nhân. Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân. Chủ doanh nghiệp tư nhân không được đồng thời là chủ hộ kinh doanh, thành viên công ty hợp danh.
Tính chất một chủ của doanh nghiệp tư nhân được thể hiện ở các khía cạnh khác nhau:
– Về vốn:
+ Chủ doanh nghiệp tư nhân là người duy nhất bỏ vốn thành lập doanh nghiệp, Vốn của doanh nghiệp tư nhân do chủ doanh nghiệp tự đăng ký và chịu trách nhiệm về tính chính xác của lời khai đó. Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể bỏ vốn bằng đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng và các tài sản khác; đối với vốn bằng tài sản khác còn phải ghi rõ loại tài sản, số lượng và giá trị còn lại của mỗi loại tài sản.Tính chất một chủ về vốn đã hạn chế khả năng huy động vốn, đặc biệt là vốn đầu tư của doanh nghiệp, vì nếu phá vỡ đi yếu tố một chủ sở hữu về vốn, doanh nghiệp đó sẽ không còn là doanh nghiệp tư nhân. Trong quá trình hoạt động, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tăng hoặc giảm vốn đầu tư của mình vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Về quyền quyết định đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Chủ doanh nghiệp tự nhân là người quyết định duy nhất đối với tất cả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Về quyền quản lý điều hành doanh nghiệp: Chủ doanh nghiệp tư nhân có thể trực tiếp hoặc thuê người khác quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh. Trường hợp thuê người khác làm Giám đốc quản lý doanh nghiệp thì vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Và chủ doanh nghiệp tư nhân là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài hoặc Tòa án trong các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp tư nhân là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
+ Về quyền sử dụng lợi nhuận và nghĩa vụ chịu rủi ro: Chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật. Đồng thời phải gánh chịu mọi rủi ro phát sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà không có sự chia sẻ với ai.
– Chủ doanh nghiệp tư nhan chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ phát sinh trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: Trách nhiệm vô hạn được hiểu là trách nhiệm về tài sản của chủ doanh nghiệp mà không bị giới hạn bởi mức vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, nếu làm ăn thua lỗ, chủ đầu tư phải đem toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để trả nợ cho đến khi hết nợ.
Thời điểm chịu trách nhiệm vô hạn là thời điểm doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và bắt đầu bước vào hoạt động kinh doanh.
– Về tư cách pháp lý: Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân, vì không đủ các điều kiện trở thành pháp nhân theo quy định của Bộ luật dân sự 2015.
2. Quyền của chủ doanh nghiệp tư nhân đối với doanh nghiệp tư nhân.
Doanh nghiệp tư nhân là tài sản của chủ doanh nghiệp, vì vậy, chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền định đoạt mọi vấn đề liên quan đến tài sản doanh nghiệp.
– Quyền cho thuê doanh nghiệp:
Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền cho thuê toàn bộ doanh nghiệp của mình nhưng phải thông báo bằng văn bản kèm theo bản sao hợp đồng cho thuê có công chứng đến Cơ quan đăng kýkinh doanh, cơ quan thuế trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày hợp đồng cho thuê có hiệu lực thi hành. Trong thời hạn cho thuê, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật với tư cách là chủ sở hữu doanh nghiệp. Quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu và người thuê đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được quy định trong hợp đồng cho thuê.
– Quyền bán doanh nghiệp:
+ Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền bán doanh nghiệp của mình cho người khác.
+ Sau khi bán doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp tư nhân vẫn phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp phát sinh trong thời gian trước ngày chuyển giao doanh nghiệp, trừ trường hợp người mua, người bán và chủ nợ của doanh nghiệp có thỏa thuận khác.
+ Người bán, người mua doanh nghiệp phải tuân thủ các quy định của pháp luật về lao động.
+ Người mua doanh nghiệp phải đăng ký thay đổi chủ doanh nghiệp tư nhân theo quy định của Luật doanh nghiệp 2014.
– Quyền tạm ngừng kinh doanh:
Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền tạm ngừng kinh doanh. Tuy nhiên về thủ tục, chủ doanh doanh nghiệp tư nhân phải thông báo bằng văn bản về thời điểm và thời hạn tạm ngừng hoặc tiếp tục kinh doanh cho cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan thuế trong thời hạn chậm nhất 15 ngày kể từ ngày tạm ngừng hoặc tiếp tục kinh doanh.
Việc thông báo này không chỉ giúp các cơ quan có thẩm quyền quản lý hoặt động của doanh nghiệp mà còn giúp doanh nghiệp được miễn, giảm thuế trong thời hạn doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động.
Từ những phân tích ở trên, cho thấy doanh nghiệp tư nhân chỉ có một chủ sở hữu duy nhất nên người chủ sở hữu này hoàn toàn chủ động trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh và chế độ trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp tư nhân tạo sự tin tưởng cho đối tác, khách hàng và giúp cho doanh nghiệp ít chịu ràng buộc chặt chẽ bởi pháp luật như các loại hình doanh nghiệp khác, đó là tất cả các lý do mà loại hình doanh nghiệp tư nhân đang rất phổ biến ở Việt Nam như hiện nay.
Bạn cũng có thể tham khảo thêm thông tin các dịch vụ tư vấn về luật doanh nghiệp của chúng tôi:
- Tư vấn pháp luật doanh nghiệp trực tuyến miễn phí qua tổng đài điện thoại
- Luật sư tư vấn pháp luật doanh nghiệp trực tuyến qua email, bằng văn bản
- Luật sư tư vấn luật doanh nghiệp tại văn phòng, tại nơi khách hàng yêu cầu
- Các dịch vụ Luật sư tư vấn - tranh tụng uy tín khác của Luật Dương Gia!
Trân trọng cám ơn!