Quy định về miễn trách nhiệm hình sự theo pháp luật hiện hành. Đối tượng được miễn trách nhiệm hình sự. Miễn trách nhiệm hình sự có bị coi là có tiền án không?
Miễn trách nhiệm hình sự là một trong những chế định quan trọng của pháp luật hình sự Việt Nam, thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước đối với người phạm tội, đồng thời nhằm động viên, khuyến khích người phạm tội lập công chuộc tội, chứng tỏ khả năng giáo dục, cải tạo tốt, hòa nhập với cộng đồng. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, chế định miễn trách nhiệm hình sự vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện. Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự, hậu quả pháp lý cụ thể của việc miễn trách nhiệm hình sự là gì? Chế định về miễn trách nhiệm hình sự hiện nay nằm rải rác ở các điều luật. Luật Dương Gia xin tổng hợp cơ bản các quy định về miễn trách nhiệm hình sự trong bài viết này.
I. Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự
Khái niệm, cơ sở và nội dung của miễn trách nhiệm hình sự cũng xuất phát từ khái niệm, cơ sở và nội dung của trách nhiệm hình sự. “Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước do luật hình sự quy định đối với người phạm tội”.
Còn, khái niệm miễn trách nhiệm hình sự có thể được định nghĩa như sau: Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam và được thể hiện bằng văn bản với nội dung hủy bỏ hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện hành vi đó, do các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng áp dụng khi có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều kiện luật định.
II. Những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999
1. Miễn trách nhiệm hình sự cho người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội (Điều 19)
Các điều kiện của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội bao gồm:
Thứ nhất, việc chấm dứt thực hiện ý định hoặc hành vi phạm tội của người phạm tội phải tự nguyện và dứt khoát, có nghĩa người đó phải từ bỏ thực sự ý định phạm tội hoặc hành vi phạm tội mà họ đã bắt đầu, chứ không phải tạm thời dừng lại chốc lát để chờ cơ hội, điều kiện thuận lợi khác hay chuẩn bị kỹ lưỡng hơn sẽ tiếp tục phạm tội.
Thứ hai, việc chấm dứt thực hiện tội phạm phải và chỉ xảy ra trong trường hợp tội phạm được thực hiện ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội và giai đoạn phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành, chứ không thể xảy ra ở giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành hay giai đoạn tội phạm hoàn thành.
Thứ ba, việc chấm dứt việc thực hiện tội phạm phải do chính bản thân người đó tự quyết định, mặc dù vào thời điểm thực tế quyết định chấm dứt việc thực hiện tội phạm, người phạm tội vẫn nhận thức được khả năng thực tế khách quan vẫn cho phép tiếp tục thực hiện tội phạm.
Do đó, nếu đáp ứng đầy đủ những điều kiện trên, thì “… Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm. Nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đầy đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này“. Như vậy, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội chính là một trường hợp miễn trách nhiệm hình sự quy định trong Phần chung Bộ luật hình sự năm 1999.
2. Miễn trách nhiệm hình sự do sự chuyển biến của tình hình (Khoản 1 Điều 25)
Theo khoản 1 Điều 25 Bộ luật hình sự năm 1999 thì người phạm tội “được miễn trách nhiệm hình sự, nếu khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa“. Theo đó, đây là trường hợp miễn trách nhiệm hình sự có tính chất bắt buộc đối với hai trường hợp:
Thứ nhất, khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử do sự chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa và;
Thứ hai, khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử do sự chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
Đây là trường hợp khi các cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội, do tình hình đã thay đổi, pháp luật hình sự hiện hành quy định hành vi do người đó thực hiện đã không còn nguy hiểm cho xã hội, mặc dù vào thời điểm thực hiện hành vi phạm tội thì hành vi đó vẫn được quy định trong pháp luật hình sự và đối với nó phải bị xử lý bằng biện pháp pháp lý hình sự.
3. Miễn trách nhiệm hình sự do sự ăn năn hối cải của người phạm tội (Khoản 2 Điều 25)
Theo khoản 2 Điều 25 Bộ luật hình sự năm 1999 thì trong trường hợp “trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội đã tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm, thì cũng có thể được miễn trách nhiệm hình sự“.
Xem xét trường hợp miễn này cho thấy đây là trường hợp miễn trách nhiệm hình sự có tính chất tùy nghi (có thể được miễn), nếu trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người đó phải tự thú về tội phạm chưa bị phát giác, phải khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm (có nghĩa khai đầy đủ tất cả hành vi phạm tội của mình, của những người đồng phạm khác, giúp đỡ cơ quan Điều tra phát hiện tội phạm).
Ngoài ra, cùng với việc tự thú, người phạm tội phải chủ động ngăn chặn hậu quả của tội phạm, có nghĩa chủ động làm cho hậu quả không xảy ra hoặc hạn chế tới mức thấp nhất những thiệt hại cho Nhà nước, cho tổ chức hoặc cho công dân.
4. Miễn trách nhiệm hình sự khi có quyết định đại xá (Khoản 3 Điều 25)
Cũng theo khoản 3 Điều 25 Bộ luật hình sự năm 1999 thì người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có quyết định đại xá. Đây cũng là một trường hợp miễn trách nhiệm hình sự có tính chất bắt buộc khi có văn bản đại xá. Bằng trường hợp miễn trách nhiệm hình sự này, lần đầu tiên nhà làm luật Việt Nam không chỉ “khẳng định dứt khoát đại xá là một chế định luật hình sự, mà còn thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự nói chung, của pháp luật hình sự nói riêng trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam“.
5. Miễn trách nhiệm hình sự cho người chưa thành niên phạm tội (Khoản 2 Điều 69)
Trong các nguyên tắc cơ bản xử lý người chưa thành niên phạm tội được quy định trong Điều 69 Bộ luật hình sự năm 1999, nhà làm luật nước ta đã hạn chế đến mức thấp nhất việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ, hạn chế áp dụng các chế tài hình sự nghiêm khắc và bất đắc dĩ mới buộc phải áp dụng chúng. Đặc biệt, luật còn quy định trong số đó nguyên tắc xử lý có thể áp dụng biện pháp miễn trách nhiệm hình sự. Cụ thể, khoản 2 Điều này quy định “Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận trách nhiệm giám sát, giáo dục“.
Theo đó, điều kiện để người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi:
Thứ nhất, người phạm tội là người chưa thành niên;
Thứ hai, tội phạm mà người đó thực hiện phải là tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn;
Thứ ba, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và;
Thứ tư, được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
Như vậy, nếu đáp ứng đầy đủ những điều kiện trên thì người chưa thành niên phạm tội cũng mới chỉ có thể được miễn chứ không phải họ đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự.
6. Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội gián điệp (Khoản 3 Điều 80)
Tội gián điệp là một trong những tội phạm đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia. Đối với loại tội phạm này, Nhà nước ta có đường lối xử lý rất nghiêm khắc và kiên quyết. Tuy là một tội phạm đặc biệt nguy hiểm song căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, vào nhân thân người phạm tội và các hành động cụ thể, Nhà nước ta vẫn có đường lối xử lý riêng đối với người phạm tội trong trường hợp có căn cứ pháp lý và những điều kiện nhất định. Vì vậy, khoản 3 Điều 80 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “Người đã nhận làm gián điệp nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và đã tự thú, thành khẩn khai báo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì được miễn trách nhiệm hình sự”. Đây là trường hợp miễn trách nhiệm hình sự có tính chất bắt buộc khi nhà làm luật sử dụng thuật ngữ “được miễn”.
Như vậy, theo nội dung điều luật, người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội gián điệp khi thỏa mãn hai điều kiện sau đây:
Thứ nhất, người này đã nhận nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức tình báo nước ngoài nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao đó.
Thứ hai, người này đã tự thú và thành thật khai báo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
7. Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội đưa hối lộ (khoản 6 Điều 289)
Tội đưa hối lộ là hành vi của người đưa tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng trở lên hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc vi phạm nhiều lần cho người có chức vụ, quyền hạn để người này làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ.
Do tính nghiêm trọng của tội đưa hối lộ nên pháp luật quy định hình phạt nói chung cũng rất nghiêm khắc, tùy thuộc vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Tuy nhiên, cũng có trường hợp người đưa hối lộ được miễn trách nhiệm hình sự. Điều kiện để các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền xem xét quyết định miễn trách nhiệm hình sự hay không đối với người đưa hối lộ được ghi nhận tại đoạn 2 khoản 6 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999 với nội dung “người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được hoàn trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ“.
Như vậy, người phạm tội đã thực hiện các hành vi cấu thành tội đưa hối lộ nghĩa là đã đưa ra và yêu cầu người có chức vụ, quyền hạn nhận tiền của hoặc chấp nhận sự đòi hỏi hối lộ của người có chức vụ, quyền hạn.
8. Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội làm môi giới hối lộ (Điều 290)
Tội làm môi giới hối lộ được quy định tại Điều 290 Bộ luật hình sự năm 1999, được hiểu là hành vi làm trung gian giữa người nhận hối lộ và người đưa hối lộ nhằm đạt được sự thỏa thuận về của sẽ hối lộ, cũng như về công việc phải làm hoặc không phải làm theo yêu cầu của người đưa hối lộ đối với người nhận hối lộ.
Đối với tội này, trường hợp miễn trách nhiệm hình sự có tính chất tùy nghi thuộc thẩm quyền áp dụng của bất kỳ cơ quan tư pháp hình sự nào khi có cơ sở cho thấy, người môi giới hối lộ có đủ căn cứ do luật định như “chủ động khai báo trước khi bị phát giác”.
9. Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội không tố giác tội phạm (Điều 314)
Hành vi phạm tội không tố giác tội phạm luôn được thực hiện dưới hình thức không hành động. Tuy nhiên, “Người không tố giác tội phạm nếu đã có hành vi can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt” (khoản 3 Điều 314). Những điều kiện để được miễn trách nhiệm hình sự bao gồm:
Thứ nhất, người không tố giác tội phạm phải có hành động can ngăn người phạm tội.
Thứ hai, người phạm tội hạn chế tác hại của tội phạm. Hạn chế tác hại của tội phạm là trường hợp tội phạm đã được thực hiện, hậu quả của hành vi phạm tội đã xảy ra, nhưng người biết được tội phạm đã kịp thời sử dụng những biện pháp mà họ cho là cần thiết để hạn chế tác hại của tội phạm.
Kết luận:
Mặc dù những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự đã được quy định một cách chính thức và cụ thể trong Bộ luật hình sự nhưng đối với mỗi trường hợp miễn trách nhiệm hình sự thì việc hiểu rõ bản chất của nó để áp dụng trong thực tiễn còn nhiều vấn đề chưa rõ ràng và chưa thống nhất. Vì thế, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền nhiều khi còn áp dụng chưa đúng với quy định của điều luật. Cho nên, trong thực tiễn xét xử cho thấy vẫn còn có một số trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự không có căn cứ và chưa đúng pháp luật, bỏ lọt tội phạm và người phạm tội.
Bạn cũng có thể tham khảo thêm thông tin các dịch vụ tư vấn về pháp luật hình sự của chúng tôi:
- Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến miễn phí qua điện thoại
- Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua email, bằng văn bản
- Luật sư tư vấn luật hình sự tại văn phòng và tại nơi khách hàng yêu cầu
- Các dịch vụ Luật sư tư vấn - tranh tụng uy tín khác của Luật Dương Gia!
Trân trọng cám ơn!