Quy định xử lý tài sản thế chấp khi bên vay vi phạm nghĩa vụ dân sự. Phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp.
Tóm tắt câu hỏi:
Tôi có tình huống cần tư vấn như sau: Chúng tôi là bên A - bên cho vay, bên vay vốn là bên C và bên thế chấp tài sản là bên B. Trong điều khoản hợp đồng thế châp tài sản có điều khoản về xử lý TS như sau: "ĐIỀU 7: XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP 7.1 Các trường hợp xử lý TSTC: 7.1.1 Đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ trả nợ mà Bên C và/ hoặc Bên B không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ trả nợ; 7.1.2 Bên C và/ hoặc Bên B vi phạm nghĩa vụ của mình dẫn đến việc phải thực hiện nghĩa vụ trước thời hạn nhưng vẫn không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ; 7.2 Nguyên tắc xử lý TSTC 7.2.1 Bên A có quyền trực tiếp, hoặc chuyển giao quyền thu hồi nợ, hoặc ủy quyền cho Bên thứ ba xử lý TSTC; 7.2.2 TSTC được xử lý theo phương thức do các Bên đã thỏa thuận, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác; 7.2.3 Nếu Bên A và Bên B không thỏa thuận được giá để xử lý TSTC (giá bán, giá bù trừ nợ, …) thì Bên A có quyền quyết định giá. 7.3 Phương thức xử lý TSTC 7.3.1 Bên B phối hợp cùng Bên A bán tài sản, ủy quyền cho bên thứ ba bán tài sản hoặc Bên B bán tài sản với sự chấp thuận của Bên A. 7.3.2 Bên B giao TSTC cho Bên A để bù trừ nợ với các nội dung do hai Bên thỏa thuận. 7.3.3 Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày đến hạn trả nợ mà TSTC không được xử lý theo các phương thức trên, Bên A được quyền đơn phương, chủ động lựa chọn một trong các phương thức xử lý sau : • Trực tiếp xử lý TSTC để thu hồi nợ theo đúng qui định của phát luật; • Nhận chính TSTC để bù trừ, thu hồi nợ." Nghĩa vụ nợ phát sinh từ năm 2011 đến nay chưa thanh toán, các bên đã không còn hợp tác để xử lý tài sản và rời khỏi địa phương từ năm 2012 và hồ sơ đã hết thời hiệu để khởi kiện. Chúng tôi không có cách nào để thu hồi nợ vay dù vẫn còn đang giữ tài sản thế chấp. Vậy trường hợp này có được xem là không có thỏa thuận xử lý tài sản và chúng tôi có được toàn quyền đưa tài sản ra bán đấu giá theo quy định tại Khoản 1 Điều 58 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm hay không? Nhờ Luật Dương Gia tư vấn. Xin cảm ơn! Trước khi các bên hoàn thoàn không hợp tác thì bên thế chấp có ủy quyền cho nhân viên của chúng tôi (có công chứng tại phòng công chứng) được thực hiện các công việc như sau: "- Liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền để xóa thế chấp; được nhận bản chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của TSĐB - Sau khi xóa thế chấp thì bên B (tức nhân viên của chúng tôi) được toàn quyền quản lý, trông coi, cho thuê, cho mượn, chuyển nhượng, tặng cho đối với tài sản trên, căn cứ theo quy định hiện hành Trong phạm vi ủy quyền, nguời được ủy quyền được liên hệ với các cá nhân và tổ chức có thẩm quyền; nộp và nhận hồ sơ; cung cấp chứng cứ, lập văn bản tài liệu giao kết các việc được ủy quyền; nộp và nhận các khoản tiền; được thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật" Chúng tôi có thể căn cứ vào hợp đồng ủy quyền này để xử lý tài sản (mà cụ thể là bán đấu giá) hay không? Kính nhờ Luật Dương Gia tư vấn! Xin cảm ơn!
Câu hỏi được biên tập và đăng tải bởi Bộ phận tư vấn về pháp luật dân sự – Phòng trợ giúp pháp lý trực tuyến miễn phí của Công ty Luật TNHH Dương Gia.
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Căn cứ pháp lý
2. Nội dung tư vấn
Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp).
Tài sản thế chấp do bên thế chấp giữ. Các bên có thể thỏa thuận giao cho người thứ ba giữ tài sản thế chấp.
Theo quy định tại Điều 299 Bộ luật dân sự năm 2015 các trường hợp xử lý tài sản bảo đảm
“1. Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
2. Bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của luật.
3. Trường hợp khác do các bên thỏa thuận hoặc luật có quy định.”
Nguyên tắc chung – Theo quy định tại khoản 1, Điều 303 Bộ luật dân sự năm 2015 các bên có thể thỏa thuận một trong các phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp sau đây: + Bán đấu giá tài sản;
+ Bên nhận bảo đảm tự bán tài sản;
+Bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm;
+ Phương thức khác.
Ngoài ra theo quy định tại Khoản 15 Điều 1 Nghị định 11/2012/NĐ-CP Nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm như sau:
“Người xử lý tài sản bảo đảm (sau đây gọi chung là người xử lý tài sản) là bên nhận bảo đảm hoặc người được bên nhận bảo đảm ủy quyền, trừ trường hợp các bên tham gia giao dịch bảo đảm có thỏa thuận khác.
Người xử lý tài sản căn cứ nội dung đã được thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm để tiến hành xử lý tài sản bảo đảm mà không cần phải có văn bản ủy quyền xử lý tài sản của bên bảo đảm.”
“6. Trong trường hợp tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, nhà ở thì tổ chức, cá nhân mua tài sản bảo đảm hoặc nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm phải thuộc đối tượng được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; trường hợp tổ chức, cá nhân không thuộc đối tượng được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì chỉ được hưởng giá trị quyền sử dụng đất, giá trị nhà ở.”
Bên nhận bảo đảm tự bán tài sản – Điều 195, Bộ luật dân sự 2015 quy định “người không phải là chủ sở hữu tài sản chỉ có quyền định đoạt tài sản theo ủy quyền của chủ sở hữu hoặc theo quy định của luật”. Điểm b, khoản 1, Điều 303 Bộ luật dân sự năm 2015 đã mở ra một ngoại lệ cho bên nhận bảo đảm là người không phải chủ sở hữu của tài sản bảo đảm – được tự bán tài sản bảo đảm.
Bộ luật dân sự 2015 không đề cập thời điểm mà các bên có thể thỏa thuận về việc ngân hàng tự bán tài sản bảo đảm. Có thể hiểu, các bên có thể thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm hoặc vào thời điểm xử lý tài sản bảo đảm.
Trong hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp, thường các ngân hàng bao giờ cũng xây dựng điều khoản bên có tài sản (bên thế chấp) ủy quyền cho ngân hàng được quyền xử lý tài sản bảo đảm khi bên vay vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Vậy thực tế, khi cần phải xử lý tài sản bảo đảm, thì ngân hàng có thể vận dụng quy định ủy quyền này để thực hiện bán tài sản qua đấu giá.
Như vậy, để ngân hàng được tự mình bán tài sản thế chấp, chỉ cần các bên có thỏa thuận về phương thức xử lý bảo đảm này, mà không cần có ủy quyền của bên bảo đảm cho ngân hàng vì mục đích này.
Bạn cũng có thể tham khảo thêm thông tin các dịch vụ tư vấn về luật dân sự của chúng tôi:
- Tư vấn pháp luật dân sự trực tuyến miễn phí qua tổng đài điện thoại
- Luật sư tư vấn pháp luật dân sự trực tuyến qua email, bằng văn bản
- Luật sư tư vấn luật dân sư tại văn phòng và tại nơi khách hàng yêu cầu
- Các dịch vụ Luật sư tư vấn - tranh tụng uy tín khác của Luật Dương Gia!
Trân trọng cám ơn!