Tai nạn chết người nhưng không có lỗi có phải bồi thường không? Điều khiển phương tiện giao thông đường bộ vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng người khác.
Tóm tắt câu hỏi:
Xin chào Luật sư! Em tên là Nguyễn Thị Quyên. Em thấy trên website có mục liên hệ tư vấn qua mail, hiện tại em có một số vấn đề chưa giải quyết được, vậy mong Luật sư tư vấn giúp em ạ. Vào ngày 1/10/2016 trên đoạn đường Quốc lộ 56 thuộc ấp Tân Phong, xã Xuân Tân, thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai xảy ra một vụ tai nạn giữa xe máy và xe tải mang biển số 85C – 02545. Người điều khiển xe máy là anh trai Tôi tên Nguyễn Anh Đức(32 tuổi). Sau khi va chạm người dân đã đưa anh trai tôi vào bệnh viện đa khoa Long Khánh rồi bệnh viện chuyển anh Tôi lên tuyến trên là bệnh viện đa khoa Đồng Nai nhưng do chấn thương quá nặng nên anh Tôi không qua khỏi và tử vong tại Bệnh viện. Sau khi, Gia đình chúng Tôi lo thủ tục đưa anh Tôi về quê mai táng tại Nghệ An quay trở vào thì bên công an mời lên làm việc. Tôi được biết trong biên bản hiện trường ghi lỗi hoàn toàn do người điều khiển xe máy (tức anh trai tôi). Trong biên bản hiện trường ghi lại vết thắng xe tải dài 35m và vết cày xe máy là dài 26m. Tôi được biết tài xế là người lái thuê và Lúc gia đình Tôi đưa anh về quê mai táng thì bên chủ xe tại gây tai nạn có gửi cho gia đình tôi 20 triệu đồng. Vậy xin luật trả lời giúp em mốt số câu hỏi sau ạ:
1/ Thưa luật sư, Vậy Ai là người chịu trách nhiệm chính trong vụ tai nạn này ạ (chủ xe tải hay tài xế)?
2/ Ai là người chịu Trách nhiệm bồi thường, và mức bồi thường như thế nào ạ?
3/ Giâ đình bên lái xe gắn máy có phải đưa đơn vào cơ quan công an để thưa kiện bên xe tải không, và nếu có thì hồ sơ gồm những gì ạ?
4/ Thời gian xét xử vụ tại nạn này tối đa là bao lâu, nếu lâu quá thì bên xe gắn máy có quyền yêu cầu cơ quan chức năng xét xử sớm hơn được không ạ? Em xin thành thật cảm ơn!
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Căn cứ pháp lý:
2. Giải quyết vấn đề:
* Trách nhiệm hình sự:
Căn cứ Điều 202 Bộ luật hình sự 1999 quy định tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ:
“1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;
b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;
c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;
d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;
đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
…”
Như vậy, pháp luật quy định trường hợp người nào khi tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm các quy định về an toàn giao thông đường bộ theo Luật giao thông đường bộ 2008 mà gây thiệt hại xâm phạm về tài sản, tính mạng, sức khỏe của người khác thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định trên.
Các yếu tố cấu thành:
– Chủ thể:
+ Người điều khiển phương tiện giao thông cũng là người tham gia giao thông, nhưng người tham gia giao thông thì có thể không phải là người điều khiển phương tiện giao thông. Đây cũng là dấu hiệu phân biệt tội phạm này với các tội vi phạm an toàn giao thông khác.
+ Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông gồm người điều khiển xe cơ giới, xe thô sơ, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ.
+ Người tham gia giao thông đường bộ gồm người điều khiển, người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật và người đi bộ trên đường bộ.
+ Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, vì tội phạm này là tội phạm được thực hiện do vô ý và không có trường hợp nào là tội đặc biệt nghiêm trọng.
– Mặt chủ quan:
Người phạm tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ thực hiện hành vi là do vô ý (vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý vì cẩu thả).
+ Vô ý vì quá tự tin là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xẩy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
+ Vô ý vì cẩu thả là trường hợp người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
– Hậu quả của tội phạm
Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này.
Thiệt hại cho tính mạng là làm người khác bị chết;
Thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ hoặc tài sản của người khác coi là làm cho người khác bị thương nặng hoặc làm cho tài sản của người khác bị mất mát hư hỏng nặng.
Nếu hành vi vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà chưa gây ra thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác thì chưa cấu thành tội phạm, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 điều Điều 202 Bộ luật hình sự.
Trong trường hợp của gia đình bạn thì cơ quan công an đã xác định bên lái xe tải không lỗi gây tai nạn giao thông nên không đặt ra trách nhiệm hình sự đối với tài xế lái xe tải.
* Trách nhiệm dân sự:
Căn cứ Điều 584 Bộ luật dân sự 2015 quy định căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại như sau:
1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này.
Theo đó, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại phải đáp ứng các điều kiện:
– Có thiệt hại xảy ra: Chỉ có thiệt hại mới phải bồi thường, xác định mức thiệt hại bao nhiêu thì phải bồi thường bấy nhiêu.Thiệt hại là những tổn thất xảy ra được tính thành tiền bao gồm những mất mát, hư hỏng, hủy hoại về tài sản, nguồn thu nhập bị mất mát, chi phí nhằm ngăn chặn, khắc phục những hậu quả xấu về tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tinh thần.
– Phải có hành vi trái pháp luật: Hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thực hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với quy định của pháp luật.
– Có lỗi của người gây thiệt hại;
– Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra.
Theo như bạn trình bày, vào ngày 1/10/2016 trên đoạn đường Quốc lộ 56 thuộc ấp Tân Phong, xã Xuân Tân, thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai xảy ra một vụ tai nạn giữa xe máy và xe tải mang biển số 85C – 02545. Người điều khiển xe máy là anh trai bạn. Do chấn thương quá nặng nên anh bạn không qua khỏi và tử vong tại Bệnh viện. Bạn trình bày thì trong biên bản hiện trường ghi lỗi hoàn toàn do người điều khiển xe máy (tức anh trai bạn). Trong biên bản hiện trường ghi lại vết thắng xe tải dài 35m và vết cày xe máy là dài 26m.
Như vậy, có thể thấy theo bản kết luận khám nghiệm hiện trường của cơ quan công an thì lỗi hoàn toàn thuộc về anh trai của bạn do đó trách nhiệm bồi thường thiệt hại không đặt ra với người lái xe tải và chủ phương tiện theo khoản 2 Điều 584 nêu trên. Tuy nhiên, trừ trường hợp bên chủ phương tiện hoặc bên lái xe thỏa thuận bồi thường thiệt hại cho gia đình bạn.
Về việc bồi thường thiệt hại thì căn cứ theo Điều 591 Bộ luật dân sự 2015 quy định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
– Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;
– Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
– Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;
– Thiệt hại khác do luật quy định.
– Bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích của người bị thiệt hại.
Bạn cũng có thể tham khảo thêm thông tin các dịch vụ tư vấn về luật dân sự của chúng tôi:
- Tư vấn pháp luật dân sự trực tuyến miễn phí qua tổng đài điện thoại
- Luật sư tư vấn pháp luật dân sự trực tuyến qua email, bằng văn bản
- Luật sư tư vấn luật dân sư tại văn phòng và tại nơi khách hàng yêu cầu
- Các dịch vụ Luật sư tư vấn - tranh tụng uy tín khác của Luật Dương Gia!
Trân trọng cám ơn!