Thanh toán nghĩa vụ do người chết để lại. Trách nhiệm thanh toán các khoản nợ do người chết để lại theo quy định bộ luật dân sự mới nhất.
Khi một cá nhân chết đi, họ không hẳn chỉ để lại cho các con, cháu, hàng thừa kế tài sản để thừa hưởng mà song song với nó là có thể bao gồm các khoản nợ, nghĩa vụ tài chính, thuế,… với các cá nhân, tổ chức hay Nhà nước khác. Nghĩa vụ tài sản do người chết để lại phát sinh từ thời điểm mở thừa kế do những người thừa kế có các quyền đồng thời với nghĩa vụ đối với số tài sản đó. Theo quy định tại Điều 615 Bộ luật dân sự năm 2015 về thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại .
1. Chủ thể để thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại quy định như sau:
Theo khoản 1, Điều 615 Bộ luật dân sự năm 2015 như sau:“1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
* Thừa kế theo di chúc
+ Nếu người có di sản chết có để lại di chúc thì những người hưởng thừa kế được xác định là những người có trong di chúc nếu người để lại di sản có để lại di chúc hợp pháp .
+ Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc: Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; Con thành niên mà không có khả năng lao động. Đối tượng này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định pháp luật dân sự.
* Thừa kế theo pháp luật
Người thừa kế theo pháp luật nếu người để lại di sản không có di chúc thì người thừa kế xác định theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.
– Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
– Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
– Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Những đối tượng trên tuy từng trường hợp sẽ phải thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại.
Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết.
Nếu di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện như sau:
– Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra.
– Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản.
– Trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người quản lý thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.
Người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế (như đã nêu ở phần chủ thể nói trên) trong phạm vi di sản do người chết để lại.
3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
* Phân chia di sản theo di chúc
– Việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí của người để lại di chúc; nếu di chúc không xác định rõ phần của từng người thừa kế thì di sản được chia đều cho những người được chỉ định trong di chúc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
– Trường hợp di chúc xác định phân chia di sản theo hiện vật thì người thừa kế được nhận hiện vật kèm theo hoa lợi, lợi tức thu được từ hiện vật đó hoặc phải chịu phần giá trị của hiện vật bị giảm sút tính đến thời điểm phân chia di sản; nếu hiện vật bị tiêu hủy do lỗi của người khác thì người thừa kế có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
– Trường hợp di chúc chỉ xác định phân chia di sản theo tỷ lệ đối với tổng giá trị khối di sản thì tỷ lệ này được tính trên giá trị khối di sản đang còn vào thời điểm phân chia di sản.
* Phân chia di sản theo pháp luật
– Khi phân chia di sản, nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra được hưởng; nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng.
– Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia.
Nếu như đã phân chia di sản thì người thực hiện nghĩa vụ tài sản để lại tương ứng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận.
4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.
Ví dụ:
Ông A vừa mất ngày 15 tháng 3 năm 2017, trước khi mất vào năm 2015 ông A có vay nợ của ông B 200 triệu thời hạn 1 năm. Sau khi ông A mất ông B đến cầm giấy tờ ghi nợ của ông A và ông B đã giao kết trước đây để yêu cầu gia đình ông A trả. Ông A mất không để lại di chúc, hàng thừa kế thứ nhất của ông A hiện có vợ và hai người con đã thành niên. Tài sản của ông A để lại có 1 căn nhà tài sản chung của vợ chồng ông A và khối tài sản riêng 200 triệu. Kể từa thời điểm ông A mất đến thời điểm ông B đến đòi nợ thì di sản do ông A để lại vẫn chưa được phân chia. Chính vì vậy, mà vợ ông A và hai người con của ông A đã thỏa thuận cử ra người quản lý di sản của ông A là vợ của ông A. Người quản lý di sản và 2 người con đã thực hiện theo thỏa thuận trả cho ông B khoản nợ do ông A vay trước khi mất bằng số tài sản riêng của ông A để lại 200 triệu. Còn phần di sản còn lại của ông A sẽ chia thừa kế theo pháp luật.
Như vậy, trong trường hợp người để lại di sản chết mà có nghĩa vụ chưa thực hiện thì người thừa kế phần di sản đó có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại trong phạm vi di sản của người mất để lại.
Bạn cũng có thể tham khảo thêm thông tin các dịch vụ tư vấn về pháp luật thừa kế của chúng tôi:
- Luật sư tư vấn pháp luật thừa kế trực tuyến miễn phí qua điện thoại
- Luật sư tư vấn luật thừa kế, tranh chấp thừa kế qua email, bằng văn bản
- Luật sư tư vấn luật thừa kế, tranh chấp thừa kế trực tiếp tại văn phòng
- Các dịch vụ Luật sư tư vấn - tranh tụng uy tín khác của Luật Dương Gia!
Trân trọng cám ơn!