Thời hiệu tố cáo của tội hiếp dâm trẻ em. Có được tố cáo tội hiếp dâm trẻ em nhiều lần cách đây năm năm trước.
Thời hiệu tố cáo của tội hiếp dâm trẻ em. Có được tố cáo tội hiếp dâm trẻ em nhiều lần cách đây năm năm trước.
Tóm tắt câu hỏi:
Tôi có vấn đề thắc mắc sau đây xin nhờ công ty hãy tư vấn để tôi có cách giải quyết thật đúng đắn ạ. A(20 tuổi) bị người chú ruột của mình hiếp dâm từ năm 7 tuổi và nhiều lần cho tới khi 15 tuổi. Ông ta đe dọa có dùng vũ lực vì lúc đó A rất sợ nên không giám nói cho ai biết về hành vi đó của người chú. Hiện tại A muốn kiện người chú mà vì chuyện đã xảy ra rất lâu nên giờ không có còn bằng chứng gì để chứng minh cả. Vậy nên giờ A có thể kiện người chú ra Tòa được không ạ? Nếu kiện có gì bất lợi với A không? Mà có khả năng thắng kiện không ạ? Tôi xin chân thành cảm ơn!
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Căn cứ pháp lý.
2. Giải quyết vấn đề:
Theo như bạn trình bày A năm nay 20 tuổi, bị người chú ruột có hành vi hiếp dâm từ năm 7 tuổi và nhiều lần cho tới khi 15 tuổi. Do người chú đe dọa dùng vũ lực nên A không dám nói cho ai biết về hành vi của người chú. Vì bạn không cung cấp rõ chú A năm nay bao nhiêu tuổi? thời điểm có hành hiếp dâm A là chú A bao nhiêu tuổi?
Căn cứ tại khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự 1999 quy định khái niệm tội phạm:
“3. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.”
Căn cứ Điều 12 Bộ luật hình sự 1999:
“Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”
Do đó, nếu thời điểm năm A 7 tuổi mà chú A đủ từ 16 tuổi trở lên thì chú A sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Còn nếu thời điểm đó chú A từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì chú A sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự vì hành vi của chú A được xác định là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng.
Đối với trường hợp này có thể xác định thời điểm năm A 7 tuổi bị người chú đe dọa, ép buộc quan hệ tình dục nên người chú có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em theo khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự 1999.
“4. Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em và người phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.”
Hiếp dâm trẻ em là hành vi của một người dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu trái ý muốn với nạn nhân là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Các yếu tố cấu thành:
* Chủ thể:
Mặc dù trong quy định của pháp luật không chỉ rõ chủ thể người thực hiện hành vi này là nam hay nữ nhưng dựa trên thực tế hoàn cảnh và quá trình xét xử của Tòa án thì chủ thể ở đây chỉ có thể là nam thực hiện đối với nạn nhân là trẻ em nữ. Còn chủ thể là nữ sẽ bị truy cứu tội này với tư cách là người đồng phạm.
* Mặt khách quan:
Người phạm tội thực hiện một trong các hành vi .
– Dùng vũ lực là dùng sức mạnh về thể chất như vật ngã, đè, giữ tay, chân, bịt miệng, bóp cổ, đấm đá, trói, giằng xé quần áo… của nạn nhân nhằm làm mất hoặc hạn chế khả năng phòng vệ, tự vệ, chống trả của nạn nhân.
– Đe dọa dùng vũ lực là các hành vi đe dọa nhằm làm tê liệt ý chí kháng cự của nạn nhân như kề súng, kề dao vào người nạn nhân,…
– Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ của nạn nhân như nạn nhân: bị say, bị ốm hoặc bị tâm thần,…
Trường hợp: quan hệ tình dục giữa một người nam đủ năng lực truy cứu trách nhiệm hình sự với nạn nhân là một trẻ em nữ bị tâm thần thì hành vi này luôn được coi là hiếp dâm dù nạn nhân đồng ý hay không đồng ý vì người tâm thần không thể nhận thức được hành vi của mình.
– Các thủ đoạn khác là các hành vi như đánh thuốc mê nạn nhân, lừa nạn nhân, dùng các chất kích thích: rượu bia, chất kích dục, …
* Hậu quả:
Tội hiếp dâm trẻ em có cấu thành hình thức: tội phạm được hoàn thành kể từ thời điểm người phạm tội có một trong các hành vi (như trên) nhằm giao cấu với nạn nhân trái ý muốn của họ, không phụ thuộc vào việc đã giao cấu được hay chưa:
– Trường hợp chưa kịp giao cấu vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội như: bị người khác phát hiện, ngăn chặn kịp; nạn nhân chống cự và giải thoát được cho mình,… thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm dưới hình thức phạm tội chưa đạt.
– Trường hợp chưa giao cấu vì nguyên nhân người phạm tội tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm thì họ có thể không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm, nhưng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội khác như làm nhục người khác… tùy thuộc từng trường hợp cụ thể.
* Đối tượng của hành vi hiếp dâm trẻ em hay nạn nhân bị hiếp dâm:
Hành vi hiếp dâm đối với trẻ em chỉ được cấu thành nếu có hành vi giao cấu trái ý muốn với nạn nhân là trẻ em có độ tuổi từ đủ 13 tới dưới 16 tuổi.
Trong trường giao cấu (trái ý muốn hoặc không trái ý muốn/ tự nguyện) với trẻ em dưới 13 tuổi thì đều bị truy cứu trách nhiệm về tội hiếp dâm trẻ em
Độ tuổi của nạn nhân chính yếu tố định tội hiếp dâm trẻ em đồng thời là dấu hiệu để phân biệt giữa tội hiếp dâm và tội hiếp dâm trẻ em trong Bộ luật hình sự.
Do vậy, nếu hành vi của chú A có đủ các yếu tố cấu thành nêu trên thì chú của A sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em theo khoản 4 Điều 112 Bộ luật hình sự 1999. Đối chiếu với khoản 3 Điều 8 thì có thấy hành vi của chú A có thể được xác định là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Tuy nhiên cũng theo như bạn trình bày thì A không có bất kỳ căn cứ chứng minh nào chứng minh hành vi vi phạm của người chú nên rất khó để tố cáo người chú ra cơ quan có thẩm quyền. Do vậy, để đảm bảo quyền và lợi ích của A thì A cần phải thu thập các căn cứ chứng minh ví dụ thông qua người làm chứng thời điểm đó, có hình ảnh, video, tin nhắn đe dọa,…hoặc chính người chú đó thừa nhận hành vi của mình.
Bạn cần lưu ý về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 23 Bộ luật hình sự 1999 quy định:
“1. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:
a) Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng;
b) Mười năm đối với các tội phạm nghiêm trọng;
c) Mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng;
d) Hai mươi năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Đối với tội phạm rất nghiêm trọng thì thời hiệu là mười lăm năm, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là hai mươi năm. Đối với trường hợp của A thì vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm đối với người chú của A.
Bạn cũng có thể tham khảo thêm thông tin các dịch vụ tư vấn về pháp luật hình sự của chúng tôi:
- Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến miễn phí qua điện thoại
- Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua email, bằng văn bản
- Luật sư tư vấn luật hình sự tại văn phòng và tại nơi khách hàng yêu cầu
- Các dịch vụ Luật sư tư vấn - tranh tụng uy tín khác của Luật Dương Gia!
Trân trọng cám ơn!