Thu nhập ổn định có được giành quyền nuôi con không? Quy định về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn.
Tóm tắt câu hỏi:
Tôi và chồng kết hôn đã được 3 năm. Chồng tôi đi Nhật Bản làm việc 3 năm và đã về được hơn 1 năm chúng tôi đã có một con gái 4 tháng tuổi. Hiện chồng tôi có công việc ổn định và thu nhập 14 triệu Vnđ / 1 tháng, còn tôi ở nhà nội trợ. Hai vợ chồng hiện sống chung với gia đình chồng và hai vợ chồng chưa có tài sản chung gì hiện tôi đang giữ khoảng 400 triệu vnđ tiền chồng tôi đi nhật gửi về cho tôi. Số tiền này tôi gửi tiết kiệm mang tên mình. Cho tôi hỏi là nếu hai vợ chồng tôi ly hôn thì tôi có đủ đk nuôi con ko? và số tiền này nếu chồng tôi đòi thì tôi có phải trả lại hết ko?
Câu hỏi được biên tập và đăng tải bởi Bộ phận tư vấn về pháp luật hôn nhân – Phòng trợ giúp pháp lý trực tuyến miễn phí của Công ty Luật TNHH Dương Gia.
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Căn cứ pháp lý:
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007
2. Nội dung tư vấn:
Phân chia tài sản và quyền trực tiếp nuôi con là hai vấn đề được rất nhiều cặp vợ chồng quan tâm khi quyết định ly hôn, chấm dứt cuộc sống hôn nhân bế tắc, khủng hoảng. Trường hợp của bạn cũng là một trường hợp như vậy. Để giải quyết vấn đề này cần xem xét các phương diện sau:
Thứ nhất, về vấn đề ly hôn của vợ chồng của bạn.
Trước hết, theo thông tin, bạn và chồng bạn đã kết hôn được ba năm. Hiên nay vợ chồng bạn đang có ý định ly hôn.
Ly hôn, theo quy định tại khoản 14 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, được xác định là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Về vấn đề ly hôn, tại Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định:
“Điều 51. Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn
1. Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
2. Cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
3. Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.”
Xem xét trong trường hợp của bạn, cả hai vợ chồng bạn đều đang có công việc, có lao động nên xác định được vợ chồng bạn đều có đủ năng lực hành vi dân sự, hoàn toàn nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Tuy nhiên, hiện nay, con của vợ chồng bạn mới chỉ có 04 tháng tuổi. Trường hợp này, căn cứ theo quy định tại Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 được trích dẫn ở trên, chồng bạn sẽ không có quyền yêu cầu ly hôn khi con của bạn đang dưới 12 tháng tuổi. Do vậy, tại thời điểm này, chỉ có bạn mới có quyền yêu cầu ly hôn. Việc ly hôn có thể được thực hiện ở hai hình thức: Thuận tình ly hôn và đơn phương ly hôn. Trong đó:
- Thuận tình ly hôn:
Thuận tình ly hôn, căn cứ theo quy định tại Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 được hiểu là trường hợp cả hai vợ chồng bạn đều có yêu cầu ly hôn, đều mong muốn ly hôn và cùng đồng thuận ký vào đơn ly hôn. Trường hợp này, khi vợ chồng bạn đều có yêu cầu ly hôn, nếu sau quá trình hòa giải, xét thấy cả vợ và chồng thực sự tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận được về vấn đề phân chia tài sản, và việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì Tòa án công nhận việc thuận tình ly hôn của vợ chồng bạn.
Trường hợp vợ chồng bạn cùng đồng thuận về vấn đề ly hôn nhưng chưa thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm được quyền và lợi ích chính đáng của người vợ (ở đây là bạn) và con thì Tòa án sẽ đưa vụ việc này ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
- Đơn phương ly hôn.
Đơn phương ly hôn, hay còn hiểu là việc ly hôn theo yêu cầu của một bên là hình thức ly hôn được áp dụng khi vợ, chồng không thỏa thuận, không đồng thuận về vấn đề ly hôn, không cùng ký kết vào đơn ly hôn, và chỉ có một trong hai vợ chồng có yêu cầu ly hôn, chấm dứt cuộc sống hôn nhân. Về vấn đề đơn phương ly hôn, tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình có quy định:
“Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên
1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.”
Trong trường hợp của bạn, khi vợ chồng bạn không đồng thuận về vấn đề ly hôn thì bạn hoặc chồng bạn đều có quyền yêu cầu ly hôn đơn phương. Tuy nhiên, như đã phân tích, tại thời điểm hiện tại chồng của bạn không có quyền yêu cầu ly hôn, vì con của bạn mới có 04 tháng tuổi, do vậy, hiện tại chỉ có bạn có quyền yêu cầu đơn phương ly hôn.
Trường hợp này, căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 được trích dẫn ở trên, khi bạn có yêu cầu ly hôn đơn phương thì sau quá trình hòa giải không thành tại Tòa án, Tòa án sẽ chỉ giải quyết việc ly hôn cho bạn khi có đầy đủ chứng cứ cho thấy căn cứ về việc vợ, chồng bạn có hành vi bạo lực gia đình hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng và những hành vi đó đã làm cho cuộc hôn nhân của vợ chồng bạn lâm vào tình trạng bế tắc, khủng hoảng, không thể tiếp tục chung sống, tiếp tục duy trì cuộc sống vợ chồng. Trong đó:
– Hành vi bạo lực gia đình, căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Luật phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, được hiểu là hành vi cố ý của những thành viên của gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình. Hành vi bạo lực gia đình, theo quy định tại Điều 2 Luật phòng, chống bạo lực gia đình thường được thể hiện ở các hành vi hành hạ, ngược đãi, đánh đập, xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của thành viên gia đình hoặc có hành vi lăng mạ, hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm hoặc cô lập, xua đuổi, hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý nghiêm trọng; hoặc chiếm đoạt, hủy hoại, đập phá, làm hư hỏng tài sản riêng của các thành viên khác hoặc tài sản chung của gia đình, hay hành vi trái pháp luật buộc gia đình ra khỏi chỗ ở hợp pháp…
– Hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng được xác định là những hành vi vi phạm nghĩa vụ tôn trọng, yêu thương, chung thủy giữa vợ và chồng được quy định trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Hành vi này thường được thể hiện ở các hành vi lăng mạ, xúc phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của vợ, chồng, ngoại tình, hoặc có hành ngăn cản, ngăn cấm quyền được học tập, được lao động hay tham gia các hoạt động xã hội của vợ, chồng…
Trên cơ sở phân tích ở trên, tùy vào từng trường hợp mà bạn có quyền lựa chọn hình thức ly hôn đơn phương hay thuận tình ly hôn khi không muốn tiếp tục cuộc sống chung của vợ chồng, muốn chấm dứt hôn nhân. Bạn cần căn cứ vào tình hình thực tế để xác định cụ thể.
Thứ hai, về vấn đề xác định quyền trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn trong trường hợp của bạn.
Về vấn đề xác định quyền trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của vợ, chồng, tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định:
“Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn
1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.
2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.”
Xem xét trong trường hợp của bạn, vợ chồng bạn đã kết hôn được 3 năm và hiện nay có một đứa con gái 04 tháng tuổi. hiện nay, vợ chồng bạn đang muốn ly hôn. Trường hợp này, khi xem xét về quyền trực tiếp nuôi con khi ly hôn, thì căn cứ theo quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 được trích dẫn ở trên, hai vợ chồng bạn có thể tự thỏa thuận với nhau về việc ai sẽ là người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
Trường hợp vợ chồng bạn không thỏa thuận được về vấn đề quyết định người trực tiếp nuôi con thì khi con bạn mới được 04 tháng tuổi, căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 được trích dẫn ở trên, người mẹ – ở đây là bạn sẽ là người được Tòa án giao quyền trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, trừ trường hợp bạn không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Mặc dù trong quy định của pháp luật không có quy định như thế nào là đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, tuy nhiên, có thể hiểu, đó là những điều kiện về vật chất và tinh thần của người cha, người mẹ (ở đây là chồng bạn và bạn) mà nhờ những điều kiện đó mà con của bạn được sống trong môi trường tốt, được nuôi dưỡng, được học tập và phát triển đầy đủ cả về thể chất và tinh thần. Điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thường được thể hiện ở các khía cạnh: thu nhập, tài chính, thời gian chăm sóc nuôi dưỡng con, môi trường sống, hoàn cảnh sống, cụ thể:
– Về thu nhập, tài chính: Người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con phải có công việc, có thu nhập ổn định, đảm bảo cuộc sống của họ và con sau khi ly hôn.
– Về thời gian chăm sóc nuôi dưỡng con: Người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con phải dành nhiều thời gian để chăm sóc, quan tâm, yêu thương con, đảm bảo cho con có được tinh thần, môi trường sống tốt nhất đảm bảo con được giáo dục toàn diện, hạn chế tiếp xúc với bạo lực gia đình, tệ nạn xã hội.
Mà xem xét trong trường hợp của bạn, như thông tin bạn cung cấp, chồng của bạn hiện đang có công việc ổn định, thu nhập 14.000.000 đồng/tháng, còn bạn chỉ ở nhà nội trợ, không có việc làm. Hai vợ chồng hiện đang chung sống cùng gia đình chồng bạn. Hai bạn cũng không có tài sản chung gì. Có thể thấy, nếu xem xét hoàn cảnh của vợ và chồng, thì tại thời điểm hiện tại, chồng bạn đang có ưu thế về kinh tế, về tài chính, đáp ứng được điều kiện vật chất để đảm bảo cuộc sống của con, còn bạn thì không có công việc, không có thu nhập để đảm bảo cuộc sống của mẹ và con khi ly hôn. Việc chỉ ở nhà nội trợ, không có công việc, thu nhập ổn định là một bất lợi của bạn khi xem xét quyền nuôi con.
Nếu những điều kiện khác như môi trường sống, thời gian chăm sóc con, nhân thân của bạn và chồng bạn tương đương nhau thì việc bạn không có công việc, không có bất kỳ nguồn thu nhập nào làm cơ sở để đảm bảo cho cuộc sống của mẹ và con sau khi ly hôn thì để đảm bảo quyền và lợi ích của người con, Tòa án có thể không giao quyền trực tiếp nuôi con cho bạn mặc dù pháp luật có sự ưu tiên cho người mẹ khi giành quyền nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Bởi vậy, để đảm bảo quyền lợi của mình, khi bạn đã quyết định ly hôn và muốn giành quyền trực tiếp nuôi con thì bạn phải tìm được một công việc, việc làm để tạo ra nguồn thu nhập đảm bảo cuộc sống của mẹ và con sau khi ly hôn.
Qua phân tích, có thể xác định, việc bạn có được giao cho bạn trực tiếp nuôi sau khi ly hôn hay không phụ thuộc vào việc vợ chồng bạn có thỏa thuận được về việc nuôi con hay không, và điều kiện của bạn khi xem xét quyền nuôi con trong trường hợp không thỏa thuận được việc nuôi con.
Thứ ba, về việc phân chia tài sản khi ly hôn
Theo thông tin, hiện tại khi vợ chồng bạn muốn ly hôn thì vợ chồng bạn đang sống chung với bố mẹ chồng. Hai vợ chồng cũng chưa có tài sản chung. Hiện tại, bạn đang giữ khoảng 400.000.000 đồng tiền mà chồng bạn trong quá trình đi sang Nhật Bản làm việc đã gửi về. Số tiền này, bạn đã gửi vào sổ tiết kiệm mang tên của bạn.
Có thể thấy, mặc dù vợ chồng bạn không có tài sản chung như đất đai, nhà cửa, xe cộ vì đang sống cùng bố mẹ chồng. Tuy nhiên, số tiền 400.000.000 đồng được bạn gửi vào số tiết kiệm mang tên mình vẫn được xác định là tài sản chung của vợ chồng bạn. Bởi căn cứ theo quy định tại Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì:
“Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng
1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.”
Căn cứ theo quy định tại Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 được trích dẫn ở trên, xem xét trong trường hợp của bạn, số tiền 400.000.000 đồng này là số tiền mà chồng của bạn tạo ra qua quá trình lao động, làm việc tại Nhật Bản khi mà hai vợ chồng bạn đã đăng ký kết hôn. Số tiền này cũng không phải là tài sản được tặng cho riêng hay thừa kế riêng. Do vậy, trường hợp này, số tiền 400.000.000 đồng trong tài khoản tiết kiệm của bạn được xác định là tài sản chung của hai vợ chồng. Việc tài khoản tiết kiệm của bạn chỉ mang tên của một mình bạn không phải là căn cứ để khẳng định số tiền đó là của một mình bạn khi căn cứ vào nguồn gốc tạo lập tài sản thì đây là tài sản chung của vợ chồng.
Khi số tiền 400.000.000 đồng được xác định là tài sản chung của vợ chồng thì khi ly hôn, tùy vào yêu cầu của bạn hoặc chồng bạn mà tài sản này sẽ được đưa ra phân chia. Căn cứ theo quy định tại Điều 38 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, vợ chồng bạn có thể tự thỏa thuận với nhau về việc phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân khi ly hôn.
Trường hợp không thỏa thuận được với nhau về vấn đề này thì Tòa án sẽ thực hiện việc phân chia tài sản chung khi bạn hoặc chồng bạn có yêu cầu phân chia. Trường hợp này, khi Tòa án phân chia tài sản khi ly hôn thì căn cứ theo quy định tại Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, về mặt nguyên tắc, tài sản chung của vợ chồng bạn là số tiền 400.000.000 đồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố như:
– Công sức đóng góp, tạo lập của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập. Điều này có nghĩa là dù bạn chỉ ở nhà nội trợ, không trực tiếp đi làm, không tạo ra số tiền 400.000.000 đồng này thì bạn vẫn có quyền yêu cầu phân chia với khoản tiền 400.000.000 đồng mà chồng bạn tạo ra trong quá trình lao động trong thời kỳ hôn nhân.
– Hoàn cảnh của gia đình và của bạn và chồng bạn.
– Lỗi của các bên trong vi phạm quyền, nghĩa của vợ chồng.
Qua phân tích ở trên, khi ly hôn, trường hợp bạn và chồng bạn không thỏa thuận được về việc phân chia số tiền 400.000.000 đồng này thì bạn vẫn có quyền yêu cầu Tòa án phân chia đối với tài sản chung này. Điều đó cũng có nghĩa là bạn có thể phải trả lại một phần tiền, thường là một nửa giá trị tài sản (tương đương 200.000.000 đồng) cho chồng của bạn khi ly hôn.
Như vậy, tùy vào từng trường hợp mà vợ chồng bạn có thể tự thỏa thuận về vấn đề tài sản và nuôi con khi ly hôn. Trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án thực hiện việc phân chia về tài sản và quyền trực tiếp nuôi con khi có yêu cầu. Bạn có thể được ưu tiên quyền trực tiếp nuôi con khi đáp ứng điều kiện để chăm sóc nuôi dưỡng con. Bạn cũng có quyền yêu cầu phân chia đối với số tiền 400.000.000 đồng là tài sản chung của vợ chồng bạn trong thời kỳ hôn nhân.
Bạn cũng có thể tham khảo thêm thông tin các dịch vụ tư vấn về luật hôn nhân và gia đình của chúng tôi:
- Tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình trực tuyến miễn phí qua điện thoại
- Luật sư tư vấn ly hôn, tư vấn giải quyết các tranh chấp khi ly hôn
- Luật sư tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình qua email, bằng văn bản
- Tư vấn luật hôn nhân, tư vấn giải quyết ly hôn trực tiếp tại văn phòng
- Các dịch vụ Luật sư tư vấn - tranh tụng uy tín khác của Luật Dương Gia!
Trân trọng cám ơn!