Tố cáo người có hành vi trộm cắp tài sản. Tội trộm cắp tài sản theo quy định của pháp luật hình sự.
Tóm tắt câu hỏi:
Có một đứa bé năm nay 15 tuổi sinh năm 2003 đã cố tình lấy điện thoại của tôi tại nhà dạy kèm của cô giáo nhưng hiện tại không có bằng chứng chỉ có một nhân chứng và nhân chứng đó là bạn của người phạm tội, người phạm tội đã kể cho nhân chứng nghe và nhân chứng thấy điều đó không nên làm nên đã gặp trực tiếp tôi và nói tôi biết sự thật, hiện tại tôi mất điện thoại được 2 ngày rồi và vẫn chưa thể lấy lại được điện thoại, xin hãy tư vấn giúp tôi cách để giúp hung thủ nhận tội và giúp tôi tìm lại được chiếc điện thoại, tài sản trị giá 5.000.000 . Xin hãy gửi câu trả lời qua email của tôi để tôi hiểu rõ hơn
Câu hỏi được biên tập và đăng tải bởi Bộ phận tư vấn về pháp luật hình sự – Phòng trợ giúp pháp lý trực tuyến miễn phí của Công ty Luật TNHH Dương Gia.
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Căn cứ pháp lý
– Luật sửa đổi Bộ luật hình sự năm 2017
2.Giải quyết vấn đề
Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về tội trộm cắp tài sản như sau:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
đ) Tài sản là di vật, cổ vật.”
Theo thông tin bạn cung cấp tại thời điểm thực hiện hành vi phạm nếu đứa bé chưa thành niên mới 15 tuổi là chưa đủ 18 tuổi nếu đủ điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ nhẹ hơn so với người đã thành niên có hành vi phạm tội tương ứng nhưng phải có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm như sau:
Đặc điểm nổi bật của tội trộm cắp tài sản là người phạm tội lén lút (bí mật) lấy tài sản mà chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không biết mình bị mất tài sản, chỉ sau khi mất tài sản họ mới biết bị mất tài sản.
– Về chủ thể: Đối với tội trộm cắp tài sản, chủ thể của tội phạm cũng tương tự như đối với tội xâm phạm sở hữu khác. Người thực hiện hành vi phạm tội phải đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và không mắc các bệnh làm mất khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của mình mà trong trường hợp của bạn thì đứa bé 15 tuổi thì chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
– Về khách thể: Khách thể của tội trộm cắp tài sản cũng tương tự như tội có tính chất chiếm đoạt khác, nhưng tội trộm cắp tài sản không xâm phạm đến quan hệ nhân thân mà chỉ xâm phạm đến quan hệ sở hữu, đứa bé phải có hành vi chiếm đoạt tài sản một cách trái pháp luật cho nên để truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp này thì đứa bé phải có hành vi lấy được cái điện thoại trong lúc cô giáo dạy học.
– Mặt chủ quan: Tội trộm cắp tài sản cũng được thực hiện do cố ý. Vì vậy, có thể nói mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội trộm cắp tài sản là “chiếm đoạt”, trong trường hợp này thì cậu bé phải lấy điện thoại nhưng chiếm đoạt bằng hình thức lén lút, với thủ đoạn lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của cô giáo do cô giáo đang giảng bài cho học sinh, không trông giữ cẩn thận hoặc lợi dụng vào hoàn cảnh khách quan khác như: chen lấn, xô đẩy, nhằm tiếp cận tài sản để thực hiện hành vi chiếm đoạt mà cô giáo hoặc mọi người không biết.cậu bé sẽ trộm chiếc điện thoại đó.
Như vậy, việc cậu bé có bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản khi đáp ứng đủ những dấu hiệu trên. Đối chiếu với trường hợp của bạn việc hiện tại không có bằng chứng chỉ có một nhân chứng và nhân chứng đó là bạn của người phạm tội, người phạm tội đã kể cho nhân chứng nghe và nhân chứng thấy điều đó không nên làm nên đã gặp trực tiếp và nói bạn biết sự thật không đủ căn cứ để xác định hành vi trộm cắp cho bạn. Trong trường hợp này bạn có thể trình báo với cơ quan công an để giải quyết điều tra vụ việc thì cơ quan công an sẽ căn cứ vào nguồn chứng cứ bao gồm cả lời khai, vật chứng, lời trình bày, file ghi âm, ghi hình…để làm rõ vụ việc. Theo đó để phục vụ cho quá trình giải quyết vụ án bạn nên phối hợp với cơ quan công an đưa ra lời khai hoặc các chứng cứ để sớm làm sáng tỏ và giải quyết theo quy định của pháp luật
Bạn cũng có thể tham khảo thêm thông tin các dịch vụ tư vấn về pháp luật hình sự của chúng tôi:
- Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến miễn phí qua điện thoại
- Luật sư tư vấn pháp luật hình sự trực tuyến qua email, bằng văn bản
- Luật sư tư vấn luật hình sự tại văn phòng và tại nơi khách hàng yêu cầu
- Các dịch vụ Luật sư tư vấn - tranh tụng uy tín khác của Luật Dương Gia!
Trân trọng cám ơn!