Trường hợp được hoãn, miễn đưa đi cơ sở cai nghiện bắt buộc. Có được bảo lãnh chồng ra khỏi trại cai nghiện khi con dưới 36 tháng tuổi không?
Tóm tắt câu hỏi:
Chồng em hiện đang cai nghiện bắc buộc tại cơ sở gì trước đó đả cai nghiện tại đia phương 3 tháng nhưng nghiện lại tòa án gửi giấy quyết định bắt buộc chồng em đi cai 18 tháng em muốn hỏi. Bao lâu thì có thể bảo lãnh chồng em vì có con nhỏ hơn 36 thánh tuổi và em thì không có nghề nghiệp và thu nhập để nuôi con. Có thể bảo lãnh chồng em về cai nghiện tại đia phương được không hoặc giảm nhẹ thời gian cai nghiện được không?
Câu hỏi được biên tập và đăng tải bởi Bộ phận tư vấn về pháp luật hành chính -Phòng trợ giúp pháp lý trực tuyến miễn phí của Công ty Luật TNHH Dương Gia.
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Căn cứ pháp lý:
2. Nội dung tư vấn:
Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một biện pháp xử lý hành chính được áp dụng đối với những người bị nghiện ma túy, được xác định là dương tính với chất ma túy. Tuy nhiên, không phải người nghiện ma túy nào cũng tự nguyện chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trại cai nghiện bắt buộc và người thân của họ cũng vậy. Trường hợp của bạn cũng là một ví dụ. Để giải quyết vấn đề này, cần xem xét các phương diện sau:
Trước hết, theo thông tin, chồng bạn hiện đang cai nghiện bắt buộc tại một cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trước đây chồng bạn đã cai nghiện tại địa phương được 03 tháng nhưng đã nghiện lại. Tòa án đã gửi giấy Quyết định đưa chồng bạn đi cai nghiện bắt buộc 18 tháng.
Trường hợp này, căn cứ theo quy định tại Điều 3 Nghị định 221/2013/NĐ-CP được sửa đổi bởi khoản 1 Điều 1 Nghị định 136/2016/NĐ-CP thì chồng bạn chỉ bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc khi thuộc một trong các trường hợp:
“Điều 3. Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
1. Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, có nơi cư trú ổn định, trong thời hạn 02 năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy hoặc trong thời hạn 01 năm kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy mà vẫn còn nghiện.
2. Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, có nơi cư trú ổn định, bị chấm dứt thi hành quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy.
3. Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, không có nơi cư trú ổn định.”
Xem xét trong trường hợp của bạn, chồng của bạn đã từ đủ 18 tuổi trở lên, cũng đã từng bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường thị trấn do nghiện ma túy mà vẫn còn nghiện nên chồng bạn có thể bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Thực tế, theo thông tin, chồng bạn đã và đang chấp hành Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của Tòa án tại một cơ sở cai nghiện bắt buộc. Nhưng bạn – vợ của người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đang muốn thực hiện thủ tục bảo lãnh chồng bạn ra ngoài vì hoàn cảnh có con nhỏ dưới 36 tháng tuổi mà bạn thì không có nghề nghiệp hay thu nhập để nuôi con. Trường hợp này, nếu căn cứ theo quy định tại Nghị định 221/2013/NĐ-CP quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 136/2016/NĐ-CP thì trong quy định của pháp luật không có quy định về việc thân nhân của người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiện thủ tục bảo lãnh người bị áp dụng cai nghiện bắt buộc được ra khỏi trại cai nghiện bắt buộc. Do vậy bạn sẽ không thể bảo lãnh chồng bạn về thực hiện việc cai nghiện tại địa phương.
Tuy nhiên, khi chồng bạn đang chấp hành quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại một cơ sở cai nghiện bắt buộc thì chồng bạn vẫn có thể được giảm thời hạn chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nếu thuộc một trong các trường hợp được quy định tại Điều 19 Nghị định 221/2013/NĐ-CP, theo đó:
“Điều 19. Giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại tại cơ sở cai nghiện bắt buộc
1. Học viên đã chấp hành một nửa thời hạn quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, nếu có tiến bộ rõ rệt hoặc lập công thì được xét giảm một phần hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại.
Học viên có tiến bộ rõ rệt là người nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy chế, quy trình cai nghiện tại cơ sở, tích cực lao động, học tập, tham gia các phong trào chung của cơ sở và được Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của cơ sở cai nghiện bắt buộc (sau đây gọi tắt là Hội đồng) công nhận.
Học viên lập công là người dũng cảm cứu người, cứu được tài sản của Nhà nước, của tập thể hoặc của người khác và được Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc khen thưởng; có sáng kiến cải tiến kỹ thuật có giá trị trong lao động, sản xuất, được cơ quan chức năng từ cấp tỉnh trở lên công nhận; có thành tích đặc biệt xuất sắc trong phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc và được tặng giấy khen của Công an hoặc Ủy ban nhân dân cấp huyện trở lên;
2. Học viên bị mắc bệnh hiểm nghèo, phụ nữ mang thai trong thời gian chấp hành quyết định thì được miễn chấp hành phần thời gian còn lại.
3. Trường hợp người đang chấp hành quyết định tại cơ sở cai nghiện bắt buộc ốm nặng có xác nhận của bệnh viện mà được đưa về gia đình điều trị thì được tạm đình chỉ chấp hành quyết định; thời gian điều trị được tính vào thời gian chấp hành quyết định; sau khi sức khỏe được phục hồi mà thời hạn chấp hành còn lại từ 03 tháng trở lên thì người đó phải tiếp tục chấp hành; trong thời gian tạm đình chỉ thi hành quyết định mà người đó có tiến bộ rõ rệt hoặc lập công thì được miễn chấp hành phần thời gian còn lại.
…”.
Căn cứ theo quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều 19 Nghị định 221/2013/NĐ-CP được trích dẫn ở trên thì việc bạn – thân nhân của chồng bạn (người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc) không có thu nhập, không có công việc và đang nuôi con nhỏ hơn 36 tháng tuổi không phải là căn cứ để quyết định việc miễn, giảm nhẹ thời hạn cai nghiện bắt buộc của chồng bạn.
Trường hợp này, chồng bạn có thể được xem xét để giảm thời hạn bị áp dụng biện pháp được vào trại cai nghiện bắt buộc nếu đáp ứng điều kiện:
– Đã chấp hành được một nửa thời hạn quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cụ thể đã chấp hành được 09 tháng cai nghiện bắt buộc, bởi theo quyết định của Tòa án thì chồng bạn buộc phải chấp hành biện pháp cai nghiện bắt buộc trong thời gian 18 tháng.
– Có tiến bộ rõ rệt hoặc đã lập công.
Trường hợp chồng bạn bị mắc bệnh hiểm nghèo thì có thể được miễn chấp hành phần thời gian còn lại trong Quyết định áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc của Tòa án.
Trường hợp chồng bạn bị ốm nặng có xác nhận của bệnh viện mà được đưa về gia đình điều trị thì sẽ được tạm đình chỉ thi hành quyết định áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc.
Trường hợp này, khi chồng bạn được xác định thuộc diện được giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành thời gian còn lại tại cơ sở cai nghiện bắt buộc thì theo quy định tại khoản 4, 5, 6 Điều 19 Nghị định 221/2013/NĐ- CP sẽ có trách nhiệm lập hồ sơ đề nghị và tổ chức họp Hội đồng xem xét về đề nghị giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành thời gian còn lại mà chồng bạn phải chấp hành. Sau khi nhận được biên bản họp của Hội đồng, Giám đốc cơ sở cai nghiện bắt buộc sẽ lập hồ sơ đề nghị gửi Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cơ sở cai nghiện bắt buộc mà chồng bạn đang chấp hành biện pháp cai nghiện bắt buộc đặt trụ sở.
Như vậy, qua phân tích ở trên, xác định việc bạn đang nuôi con nhỏ và đang không có công việc, không có thu nhập không phải là căn cứ để bạn có thể bảo lãnh đưa chồng bạn – người đang cai nghiện bắt buộc về nhà. Trường hợp này, khi chồng bạn đang chấp hành quyết định đưa vào trại cai nghiện bắt buộc thì tùy vào từng trường hợp, chồng bạn có thể được xem xét giảm thời hạn chấp hành, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành thời gian còn lại tại cơ sở cai nghiện bắt buộc khi đáp ứng điều kiện mà pháp luật quy định. Bạn cần căn cứ vào tình hình thực tế để xác định.
Bạn cũng có thể tham khảo thêm thông tin các dịch vụ tư vấn về pháp luật hành chính của chúng tôi:
- Tư vấn pháp luật hành chính trực tuyến miễn phí qua tổng đài điện thoại
- Luật sư tư vấn pháp luật hành chính qua email, trả lời bằng văn bản
- Tư vấn luật hành chính, khiếu nại hành chính trực tiếp tại văn phòng
- Các dịch vụ Luật sư tư vấn - tranh tụng uy tín khác của Luật Dương Gia!
Trân trọng cám ơn!