Tư vấn chia di sản thừa kế khi không để lại di chúc. Chỉ có anh trai mới có quyền quyết định di sản do cha mẹ để lại đúng không?
Tóm tắt câu hỏi:
Cha tôi mất 2008, để lại phần đất hương quả và nhà vườn mẹ tôi sử dụng. Tháng 5/2007 mẹ tôi mất, phần tài sản trên cha tôi vẫn còn đứng tên. Cha mẹ tôi có 6 người con, 3 trai, 3 gái. Theo đi nguyện ( miệng) là muốn để phần tài sản trên cho con út để thờ cúng như anh trai tôi thì khẳng định : " chỉ có con trai mới có quyền quyết định" và sẽ đóng cửa nhà không cho ai tới lui. Xin hỏi, anh tôi đúng hay sao? Nếu chia theo pháp luật thì chia như thế nào? Xin cảm ơn !
Câu hỏi được biên tập và đăng tải bởi Bộ phận tư vấn về pháp luật thừa kế – Phòng trợ giúp pháp lý trực tuyến miễn phí của Công ty Luật TNHH Dương Gia.
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Căn cứ pháp lý:
2. Nội dung tư vấn:
Khi một người chết đi, ngoài việc tư cách chủ thể, năng lực pháp luật dân sự và các quan hệ về nhân thân của người đó chấm dứt kể từ thời điểm họ chết thì đối với những tài sản thuộc về quyền sở hữu của họ sẽ được phân chia thừa kế cho những người thừa kế của họ, bởi thời điểm họ chết cũng là thời điểm mở thừa kế. Chính bởi vậy, sau khi một người chết đi, những người thừa kế của họ cũng tiến hành việc chia thừa kế đối với tài sản mà họ để lại. Trường hợp của bạn, theo thông tin bạn cung cấp, hiện nay bạn đang muốn phân chia tài sản thừa kế do cha mẹ để lại. Để giải quyết về vấn đề này, cần xem xét các phương diện sau:
Thứ nhất, về việc xác định tài sản thừa kế:
Theo thông tin, mẹ của bạn mất đi (chết) vào tháng 5/2007, còn bố của bạn chết vào năm 2008. Tài sản mà bố mẹ bạn để lại là một mảnh đất hương hỏa và nhà vườn hiện đang do bố của bạn đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Khi bố mẹ của bạn chết đi thì theo quy định tại Điều 634 Bộ luật dân sự năm 2005 (quy định của pháp luật có hiệu lực thi hành tại thời điểm bố, mẹ của bạn chết), những tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết, bao gồm tài sản riêng của người chết và phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác được xác định là di sản thừa kế mà người chết để lại cho những người thừa kế.
Xem xét trong trường hợp của bạn, theo thông tin, tài sản mà bố, mẹ bạn để lại là mảnh đất và căn nhà – hiện đang do bố của bạn đứng tên trên Giấy chứng nhận. Tuy nhiên, bạn không nói rõ, mảnh đất và ngôi nhà này có nguồn gốc như thế nào, do Nhà nước công nhận, hay do bố của bạn được tặng cho riêng, được thừa kế riêng hay bố mẹ bạn cùng tạo lập trong thời kỳ hôn nhân. Đồng thời, thông tin trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất được thể hiện như thế nào.
Tài sản này do bố bạn đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên có thể xác định Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này được cấp trước thời điểm bố của bạn chết (tháng 5/2007). Căn cứ theo quy định tại khoản 20 Điều 4 Luật đất đai năm 2003 thì: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là giấy chứng nhận do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho người sử dụng đất để bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Quy định này cũng được tiếp tục được khẳng định tại Luật đất đai năm 2013, theo đó, tại khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 cũng khẳng định Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất được xác định là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu khác gắn liền với đất.
Như đã phân tích, trong thông tin không nêu rõ về nguồn gốc tài sản, cũng như thể hiện thông tin người sử dụng đất trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như thế nào, nhưng nếu căn cứ theo quy định của pháp luật hiện hành tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (trước thời điểm bố bạn mất), cụ thể tại Điều 4 Thông tư 17/2009/TT-BTNMT thì khi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ ghi tên của bố bạn thì có thể thuộc vào một trong các trường hợp sau:
– Trường hợp trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chỉ ghi thông tin về người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất là “Ông” (hoặc “Bà”), ví dụ Ông Nguyễn Văn A, thì trường hợp này, tài sản này được xác định là tài sản riêng của cá nhân bố của bạn.
– Trường hợp trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, có ghi tên bố của bạn nhưng thể hiện dưới cách ghi “Hộ ông” (hoặc “Hộ bà” trước tên của bố bạn, ví dụ Hộ ông Nguyễn Văn A thì trường hợp này, tài sản này được xác định là tài sản chung của hộ gia đình mà bố của bạn là người đại diện hộ gia đình.
Đồng thời, trường hợp trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ ghi tên một mình bố của bạn, ví dụ ông Nguyễn Văn A, nhưng được tạo lập trước ngày 18 tháng 10 năm 2001 – trước ngày Nghị định 70/2001/NĐ-CP có hiệu lực, và do hai vợ chồng cùng tạo lập trong thời kỳ hôn nhân thì căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 5 Nghị định 70/2001/NĐ-CP tài sản này vẫn được xác định là tài sản chung của vợ chồng, cho dù chỉ một mình bố của bạn đứng tên.
Từ những căn cứ được trích dẫn ở trên, xem xét trong trường hợp của bạn, mặc dù trong thông tin nói rõ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở đối với tài sản này có ghi tên của bố bạn, nhưng lại không nói rõ thể hiện cụ thể thông tin người sử dụng đất như thế nào, đồng thời tài sản này tạo lập và được cấp Giấy chứng nhận vào thời điểm cụ thể nào. Do vậy, trên cơ sở phân tích ở trên, bạn cần căn cứ vào tình hình thực tế và quy định tại Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 2005 để xác định chính xác về tài sản là di sản thừa kế do bố, mẹ bạn để lại trước khi chết.
Thứ hai, về di nguyện thể hiện bằng lời nói mà bố hoặc mẹ bạn để lại trước khi chết.
Theo thông tin, khi bố, mẹ bạn chết đi có để lại di nguyện (bằng miệng) với nội dung muốn để lại phần tài sản là mảnh đất và ngôi nhà này cho người con út để thờ cúng như anh trai của bạn khẳng định: “Chỉ có con trai mới có quyền quyết định” và sẽ đóng cửa nhà để không cho ai lui tới.
Có thể thấy, di nguyện mà bố hoặc mẹ bạn để lại chỉ mang ý nghĩa như một di chúc miệng. Tuy nhiên, bố của bạn chết năm 2008, mẹ bạn chết tháng 5/2007, nếu bố, hoặc mẹ của bạn có để lại di nguyện, để lại di chúc miệng thì theo quy định của pháp luật hiện hành tại thời điểm để lại di nguyện, việc lập di chúc miệng sẽ được xác định theo quy định tại Điều 649, Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2005. Cụ thể, tại Điều 649. Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2005 có quy định như sau:
“Điều 649. Hình thức của di chúc
Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu không thể lập được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.
…
Điều 651. Di chúc miệng
1. Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng.
2. Sau ba tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.”
Căn cứ theo quy định tại Điều 649, Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2005 được trích dẫn ở trên, thì người để lại di sản chỉ được lập di chúc miệng khi tính mạng của người đó bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản. Đồng thời, sau thời gian 03 tháng, kể từ điểm bố, hoặc mẹ bạn lập di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng đã được lập cũng sẽ không có giá trị.
Đồng thời, theo quy định tại khoản 5 Điều 652 Bộ luật Dân sự năm 2005, thì một di chúc miệng chỉ được xác định là hợp pháp khi đáp ứng điều kiện sau:
“Điều 652. Di chúc hợp pháp
…
5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực.”
Xem xét trong trường hợp của bạn, mặc dù, theo thông tin, bố hoặc mẹ bạn có để lại di chúc miệng, thể hiện di nguyện cuối cùng của mình trước khi chết. Nhưng bạn không nói rõ di nguyện này được lập vào thời điểm nào, do ai lập, và lập trong tình trạng như thế nào, có ai làm chứng và có được ghi nhận lại hay không… Do thông tin bạn không nói rõ, nên bạn cần căn cứ vào tình hình thực tế và quy định tại Điều 649, 651, 652 Bộ luật Dân sự năm 2005 được trích dẫn ở trên – quy định của pháp luật hiện hành tại thời điểm mẹ, bố bạn chết để có sự xác định cụ thể.
Trường hợp bố hoặc mẹ bạn lập di chúc miệng, để lại di nguyện trước khi chết, nhưng không được lập trong tình trạng tính mạng của người lập di chúc bị cái chết đe dọa, hoặc người lập di chúc lập di chúc khi tình trạng của họ có thể lập di chúc bằng văn bản, hoặc sau 03 tháng kể từ thời điểm để lại di chúc miệng, họ vẫn còn sống minh mẫn, sáng suốt; hoặc lập di chúc miệng nhưng không có người làm chứng, không ghi nhận lại bằng văn bản nội dung di chúc miệng… thì nội dung di chúc miệng, di nguyện mà bố, mẹ bạn được xác định là không hợp pháp, không có giá trị làm căn cứ để phân chia thừa kế sau khi bố, mẹ bạn chết.
Do vậy, bạn cần căn cứ vào tình hình thực tế để xác định.
Thứ ba, về việc phân chia thừa kế đối với tài sản mà bố, mẹ bạn để lại sau khi chết.
Như đã phân tích, bố hoặc mẹ bạn có để lại di chúc miệng thể hiện di nguyện của mình, nhưng chưa thể khẳng định nội dung di chúc miệng đó có hợp pháp hay không. Do vậy, khi thực hiện việc phân chia thừa kế sẽ có hai trường hợp:
- Trường hợp 1: Di chúc miệng mà bố hoặc mẹ bạn để lại là hợp pháp.
Trường hợp này, nội dung di chúc miệng sẽ được đưa ra để phân chia thừa kế đối với những tài sản thuộc quyền sở hữu của người lập di chúc. Còn người còn lại không lập di chúc miệng, cũng không lập di chúc bằng văn bản để định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của họ sẽ thực hiện việc phân chia thừa kế theo pháp luật.
- Trường hợp, di chúc miệng mà bố hoặc mẹ bạn để lại trước khi chết không hợp pháp.
Trường hợp di chúc miệng mà bố, hoặc mẹ bạn để lại trước khi chết không hợp pháp hoặc người còn lại cũng không để lại di chúc để định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của họ thì trường hợp này, căn cứ theo quy định tại Điều 675, 676 Bộ luật dân sự năm 2005 – pháp luật hiện hành tại thời điểm bố và mẹ bạn chết thì tài sản của bố hoặc mẹ để lại sẽ được phân chia thừa kế theo pháp luật cho những người thừa kế theo pháp luật. Trong đó, những người thừa kế theo pháp luật của bố hoặc mẹ bạn được xác định theo quy định tại Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 như sau:
“Điều 676. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”
Căn cứ theo quy định tại Điều 675, 676 Bộ luật Dân sự năm 2005 được trích dẫn ở trên, khi người để lại di sản chết mà không để lại di chúc hoặc để lại di chúc không hợp pháp, thì tài sản là di sản thừa kế của người chết sẽ được phân chia thành các phần bằng nhau cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của họ gồm: cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi của người chết (nếu tại thời điểm người để lại tài sản chết họ còn sống); vợ (chồng của người chết), con đẻ, con nuôi của người chết.
Trong trường hợp của bạn, bạn là một trong những người con của bố mẹ bạn, nên khi phân chia thừa kế theo pháp luật đối với tài sản của bố hoặc mẹ bạn thì bạn đều có quyền được hưởng thừa kế một phần di sản do bố hoặc mẹ bạn để lại.
Ngoài ra, về ý kiến của anh trai bạn, hiện nay trong quy định của pháp luật đều ghi nhận quyền thừa hưởng tài sản của người thừa kế, không phân biệt nam hay nữ. Do vậy, việc cho rằng chỉ có con trai mới được hưởng quyền thừa kế, được quyền quyết định về việc phân chia tài sản thừa kế do bố, mẹ để lại là không hợp pháp.
Như vậy, qua phân tích nêu trên, do trong thông tin bạn không nêu rõ về nội dung về người sử dụng đất, người sở hữu nhà được thể hiện trên Giấy chứng nhận,,nguồn gốc tài sản, và hoàn cảnh mà bố hoặc mẹ bạn để lại di nguyện, nên để giải quyết các vấn đề của mình, bạn cần căn cứ vào tình huống thực tế để xác định cụ thể. Trường hợp di nguyện do bố hoặc mẹ bạn để lại không hợp pháp thì khi chia thừa kế theo pháp luật, bạn – một trong những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bố, mẹ bạn sẽ được hưởng một phần trong khối tài sản đất và nhà mà bố, mẹ bạn để lại.
Bạn cũng có thể tham khảo thêm thông tin các dịch vụ tư vấn về pháp luật thừa kế của chúng tôi:
- Luật sư tư vấn pháp luật thừa kế trực tuyến miễn phí qua điện thoại
- Luật sư tư vấn luật thừa kế, tranh chấp thừa kế qua email, bằng văn bản
- Luật sư tư vấn luật thừa kế, tranh chấp thừa kế trực tiếp tại văn phòng
- Các dịch vụ Luật sư tư vấn - tranh tụng uy tín khác của Luật Dương Gia!
Trân trọng cám ơn!