Tuyên bố chết và hậu quả của tuyên bố chết. Điều kiện tuyên bố chết. Thủ tục thực hiện việc tuyên bố mất tích theo Bộ luật dân sự 2015.
Trên thực tế để xác định một người là đã chết phải dựa trên sự kiện chết của người đó thông qua hình thức Giấy chứng tử. Tuy nhiên không ít trường hợp nhất định thì người thân thích không trực tiếp chứng kiến người chết hoặc không còn bất kỳ thông tin gì của người đã mất tích lâu, thì tòa án mới ra quyết định tuyên bố một người là đã chết sẽ là cơ sở để xác định quyền thừa kế di sản của người đó. Vì vậy pháp luật quy định thì khi nào được tuyên bố một người là đã chết? Thủ tục trình tục tuyên bố một người đã chết là gì? Hậu quả của việc tuyên bố một người là đã chết là gì?
1. Điều kiện để tuyên bố một người là đã chết
Theo quy định Điều 71 của Bộ luật dân sự 2015 nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân cũng như các chủ thê khác có liên quan. Cái chết là sự kiện pháp lý làm chấm dứt tư cách chủ thể của cá nhân và phải được xác minh một cách chính xác và theo quy định của pháp luật phải được khai tử theo quy định của pháp luật.
Trong thực tế, có nhiều trường hợp vì các lý do khác nhau mà không thể xác định được một cá nhân còn sống hay đã chết. Do đó, để hạn chế tối đa các trường hợp nhầm lẫn và những sai sót trong việc xác định một người có còn sống hay không trước khi tuyên bố chết đối với một cá nhân, tòa án cần xem xét các điều kiện sau:
– Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
– Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
– Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
– Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật này.
– Căn cứ vào các trường hợp này thì Tòa án xác định ngày chết của người bị tuyên bố là đã chết.
– Quyết định của Tòa án tuyên bố một người là đã chết phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố là đã chết để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
2. Thủ tục yêu cầu tuyên bố một người là đã chết
Thủ tục yêu cầu Tòa án tuyên bố một người là đã chết gồm những bước sau:
Bước 1: Gửi đơn yêu cầu lên Tòa án. Đơn yêu cầu phải có các nội dung chính sau đây:
– Ngày, tháng, năm viết đơn;
– Tên Toà án có thẩm quyền giải quyết đơn;
– Tên, địa chỉ của người yêu cầu;
– Những vấn đề cụ thể yêu cầu Toà án giải quyết và lý do, mục đích, căn cứ của việc yêu cầu Toà án giải quyết việc dân sự đó;
– Tên, địa chỉ của những người có liên quan đến việc giải quyết đơn yêu cầu, nếu có;
– Các thông tin khác mà người yêu cầu xét thấy cần thiết cho việc giải quyết yêu cầu;
– Người yêu cầu là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ, nếu là cơ quan, tổ chức thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn.
Bước 2: Gửi kèm theo đơn yêu cầu tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Trong thời hạn không quá 30 ngày, kể từ ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu của bạn, Toà án sẽ ra quyết định mở phiên họp để xét đơn yêu cầu. Và trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp, Toà án phải mở phiên họp để xét đơn yêu cầu. Theo đó, Toà án có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu tuyên bố một người là đã chết.
3. Giải quyết việc hủy bỏ tuyên bố một cá nhân là đã chết
Khi quyết định tuyên bố chết đối với cá nhân có hiệu lực pháp luật thì người đó bị coi là đã chết. Có thể có trường hợp trong thực tế người đó vẫn còn sống nhưng họ vẫn bị coi là đã chết về mặt pháp lý. Vì vậy, tất cả các quan hệ mà người đó tham gia đều sẽ được giải quyết như đối với người đã chết: quan hệ hôn nhân chấm dứt, vợ hoặc chồng người đó được tự do hôn nhân, các khoản nợ về tài sản mà người đó chưa trả sẽ được thanh toán bằng tài sản mà họ để lại, các tài sản còn lại được chia thừa kế….
Nếu người bị tuyên bố chết trở về, mọi điều sẽ trở nên vô cùng phức tạp. Bộ luật dân sự 2015 đã dự liệu và quy định cách giải quyết đối với trường hợp này, quy định tại Điều 73. Điều luật này kết hợp được giữa việc bảo vệ quyền lợi của người bị tuyên bố là đã chết nhưng còn sống với việc đưa ra những giải pháp để áp dụng đối với từng quan hệ cụ thể trong thực tế. Việc xuất hiện của cá nhân bị tuyên bố là đã chết dù ở tình trạng nào thì họ vẫn là thực thể đang tồn tại nên vẫn phải chịu sự tác động của pháp luật và các mối quan hệ khác. Nghĩa là pháp luật vẫn phải đảm bảo quyền lợi cho họ và họ vẫn phải gánh vác các nghĩa vụ nhất định. Bởi vậy, tại thời điểm người bị tuyên bố là đã chết xuất hiện thì các quyền nhân thân hợp pháp của họ đương nhiên được khôi phục, đồng thời họ phải chịu trách nhiệm với những hành vi của chính mình.
Khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan.
* Thủ tục giải quyết việc hủy bỏ tuyên bố một cá nhân là đã chết được quy định như sau:
Khi một người bị tuyên bố là đã chết trở về hoặc có tin tức xác thực là người đó còn sống thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết.
– Quan hệ nhân thân của người bị tuyên bố là đã chết được khôi phục khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết, trừ trường hợp sau đây:
– Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã được Tòa án cho ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 68 của Bộ luật này thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật;
– Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã kết hôn với người khác thì việc kết hôn đó vẫn có hiệu lực pháp luật.
– Người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống có quyền yêu cầu những người đã nhận tài sản thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện còn.
Trường hợp người thừa kế của người bị tuyên bố là đã chết biết người này còn sống mà cố tình giấu giếm nhằm hưởng thừa kế thì người đó phải hoàn trả toàn bộ tài sản đã nhận, kể cả hoa lợi, lợi tức; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
– Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng được giải quyết theo quy định của Bộ luật này, Luật hôn nhân và gia đình.
– Quyết định của Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người bị tuyên bố là đã chết để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
* Khi đó, Tòa án sẽ ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết. Hậu quả pháp lý của quyết định hủy bỏ này là:
– Thứ nhất, tư cách chủ thể của người bị tuyên bố là đã chết được trở lại tình trạng ban đầu như khi họ còn sống.
– Thứ hai, quan hệ nhân thân của người bị tuyên bố là đã chết được khôi phục khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết nhưng cần lưu ý các trường hợp sau: Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết được tòa án cho li hôn theo quy định của pháp luật thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật. Nếu người bị tuyên bố là đã chết trở về mà muốn xác lập lại quan hệ vợ chồng đối với vợ hoặc chồng đã được Tòa án cho ly hôn sẽ phải làm thủ tục đăng kí kết hôn theo quy định của pháp luật. Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã kết hôn với người khác thì việc kết hôn với người đó vẫn có hiệu lực pháp luật.
– Thứ ba, về quan hệ tài sản: người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống có quyền yêu cầu những người đã nhận tài sản thừa kế trả lại tài sản. Trong trường hợp người thừa kế của người bị tuyên bố là đã chết biết người này còn sống mà cố tình giấu giếm nhằm hưởng thừa kế thì người đó phải hoàn trả lại toàn bộ tài sản đã nhận, kể cả hoa lợi lợi tức; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Như vậy, tòa án chỉ có thể tuyên bố chết đối với một cá nhân nếu qua thời hạn luật định mà họ không còn tin tức là còn sống.
Nếu tuyên bố là đã chết đối với người đã qua thủ tục tuyên bố mất tích thì phải qua thời hạn là ba năm kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích có hiệu lực pháp luật. Nếu tuyên bố là đã chết đối với người chưa qua thủ tục tuyên bố mất tích thì phải qua thời hạn là năm năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc (nếu người đó mất tích trong chiến tranh) hoặc là một năm kể từ gày tai nạn hoặc thiên tai, thảm họa kết thúc (nếu người đó mất tích trong vụ tai nạn, thiên tai, thảm họa đó). Nếu tuyên bố mất tích đối với một người biệt tích lâu ngày mà chưa qua thủ tục tuyên bố mất tích thì phải qua thờ hạn là năm năm kể từ ngày, tháng, năm biết được tin tức cuối cùng về sự sống còn của họ. Trong trường hợp này, thời điểm bắt đầu để tính thời hạn 05 năm là ngày có tin tức cuối cùng về người đó. Nếu không thể xác định được ngày thì tính từ ngày đầu tiên của tháng tiếp theo có tin tức cuối cùng, nếu không xác định được ngày, tháng thì tính từ ngày đầu tiên của năm tiêp theo có tin tức cuối cùng.
Bạn cũng có thể tham khảo thêm thông tin các dịch vụ tư vấn về luật dân sự của chúng tôi:
- Tư vấn pháp luật dân sự trực tuyến miễn phí qua tổng đài điện thoại
- Luật sư tư vấn pháp luật dân sự trực tuyến qua email, bằng văn bản
- Luật sư tư vấn luật dân sư tại văn phòng và tại nơi khách hàng yêu cầu
- Các dịch vụ Luật sư tư vấn - tranh tụng uy tín khác của Luật Dương Gia!
Trân trọng cám ơn!