Vay tín chấp tại Ngân hàng nhưng không có khả năng chi trả có bị truy cứu trách nhiệm hình sự? Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Tóm tắt câu hỏi:
Dạ thưa luật sư cho em hỏi, hồi đó công việc ổn định em có vay tín chấp của ngân hàng 50 triệu đồng, em đóng 1 tháng 2.648.000 đồng đóng 30 tháng tổng cộng là 79.440.000 ạ. Em đóng được 6 tháng nay vì kinh tế em không có em đang thất nghiệp. Nay em đã trễ 11 ngày ngân hàng có nhắn cho em là em đã lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tàu sản ngân hàng mời em 7h hôm nay có mặt tại TAND điạ phương nhưng em không thấy giấy mời của tòa em không đi rồi họ nhắn sẽ cùng cơ quan công an cưỡng chế tài sàn và truy tố trách nhiệm hình sự. Vậy luật sư cho e hỏi? E có bị cưỡng chế tài sản và truy tố trách nhiệm hình sự không ạ. Trong khi đó e không có tài sản gì hết. Nhà của ba mẹ e ạ. Vậy nhà ba mẹ e có bị cưỡng chế không ạ. Xin luật sư hồi đáp cho e ạ. Em xin chân thành cảm ơn đến luật dương gia ạ
Câu hỏi được biên tập và đăng tải bởi Bộ phận tư vấn về pháp luật dân sự – Phòng trợ giúp pháp lý trực tuyến miễn phí của Công ty Luật TNHH Dương Gia.
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Cơ sở pháp lý
2. Giải quyết vấn đề
Vay tín chấp là hình thức vay khác với vay cần có biện pháp bảo đảm như thế chấp, bảo lãnh. Vay tín chấp là dựa trên sự tin tưởng, uy tín của cá nhân và năng lực trả nợ để phục vụ cho mục đích của cá nhân nên nếu người vay không có khả năng trả nợ thì việc đòi lại ngay là rất khó. Liệu rằng khi bạn vay như vậy mà không có khả năng trả thì bạn có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không? Tại Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bởi Luật sửa đổi Bộ luật hình sự năm 2017 quy định về lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.”
Nếu bạn thông qua vay hợp đồng vay nhằm mục đích chiếm đoạt số tiền này hoặc sử dụng số tiền này vào mục đích bất hợp pháp và giá trị số tiền từ 4 triệu đồng trở lên hoặc dưới 4 triệu nhưng trước đó bạn đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc các tội về chiếm hữu tài sản mà còn vi phạm thì bạn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, hiện tại bạn đang không có khả năng trả nợ trong 11 ngày nay chứ không phải là không trả cho ngân hàng và cũng không có mục đích nhằm chiếm lấy số tiền này nên chưa đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự bạn về tội này. Ngân hàng muốn đòi số tiền này của bạn thì phải khởi kiện ra tòa án nhân dân cấp quận, huyện nơi bạn đang cư trú hiện nay do bạn vi phạm hợp đồng về thời hạn thanh toán. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì tòa án phải tống đạt giấy mời, giấy triệu tập để mời bạn ra tòa chứ không phải chỉ dựa trên lời nói của ngân hàng yêu cầu bạn ra tòa:
“Điều 171. Các văn bản tố tụng phải được cấp, tống đạt, thông báo
1. Thông báo, giấy báo, giấy triệu tập, giấy mời trong tố tụng dân sự”.
Cơ quan công an không có quyền cưỡng chế tài sản của bạn khi bạn đang vay nợ theo hình thức tín chấp với bên ngân hàng. Việc cưỡng chế tài sản phải do bên cơ quan thi hành án dân sự thực hiện khi bạn không tự nguyện thực hiện bản án của Tòa án dân sự đã có hiệu lực pháp luật. Hơn nữa, số tài sản này là của bố mẹ bạn mà không phải thuộc sở hữu của bạn nên cơ quan thi hành án cũng không thể thực hiện việc cưỡng chế kê biên số tài sản này. Do đó, chưa đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự và cưỡng chế tài sản của ba mẹ bạn.
Bạn cũng có thể tham khảo thêm thông tin các dịch vụ tư vấn về luật dân sự của chúng tôi:
- Tư vấn pháp luật dân sự trực tuyến miễn phí qua tổng đài điện thoại
- Luật sư tư vấn pháp luật dân sự trực tuyến qua email, bằng văn bản
- Luật sư tư vấn luật dân sư tại văn phòng và tại nơi khách hàng yêu cầu
- Các dịch vụ Luật sư tư vấn - tranh tụng uy tín khác của Luật Dương Gia!
Trân trọng cám ơn!