Vợ vay tín chấp của công ty tài chính chồng có trách nhiệm phải trả nợ không? Ly hôn phân chia tài sản chung, nợ chung vợ chồng như thế nào?
Tóm tắt câu hỏi:
Xin chào luật sư! Cách đây 2 năm em đứng tên vay tiền của 1 công ty tài chính, số tiền vay là 49 triệu, hình thức trả góp trong 4 năm, mỗi tháng góp 1 triệu 850. Trong hợp đồng vay em có ghi thông tin liên lạc là chồng. Sau khi vay em chuyển tiền qua tài khoản cho chồng (dùng để làm ăn). Thời gian đầu chồng em đều góp đầy đủ, nhưng hơn 1 năm nay thì làm ăn thua lỗ nên ko góp nữa. Em đang nuôi con nhỏ nên không có khả năng góp. Cho em hỏi là khi công ty tài chính kiện thì chỉ mình em chịu trách nhiệm hay cả chồng em cũng chịu? Khi ly hôn thì số nợ đó có chia đôi cho chồng em ko? Con e được 2 tuổi, nhưng chồng em ko chu cấp tiền nuôi, ko thăm hỏi, chúng em có làm đăng ký kết hôn nhưng ko cưới hỏi, giờ chồng em có biểu hiện muốn tránh em và chối bỏ trả nợ, em thực sự không biết làm sao, mong chuyên gia tư vấn giúp em biện pháp tối ưu nhất ạ, em cám ơn
Câu hỏi được biên tập và đăng tải bởi Bộ phận tư vấn về pháp luật hôn nhân – Phòng trợ giúp pháp lý trực tuyến miễn phí của Công ty Luật TNHH Dương Gia.
Luật sư tư vấn:
Cám ơn bạn đã gửi câu hỏi của mình đến Ban biên tập – Phòng tư vấn trực tuyến của Công ty LUẬT DƯƠNG GIA. Với thắc mắc của bạn, Công ty LUẬT DƯƠNG GIA xin được đưa ra quan điểm tư vấn của mình như sau:
1. Căn cứ pháp lý:
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
2. Nội dung tư vấn:
Dựa theo thông tin bạn cung cấp, hiện nay bạn có vay tiền của một công ty tài chính với số tiền vay là 49 triệu, trả góp trong 4 năm, mỗi tháng sẽ góp 1.850.000 đồng. Trong hợp đồng vay tiền chỉ có chữ ký của bạn và ghi thông tin liên lạc của chồng. Để xác định chồng bạn có liên đới thực hiện nghĩa vụ trả nợ cùng với bạn hay không, cần xem xét phương diện sau:
Căn cứ theo quy định tại Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, khi xem xét nghĩa vụ liên đới của vợ, chồng thì:
“Điều 27. Trách nhiệm liên đới của vợ, chồng
1. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực hiện quy định tại khoản 1 Điều 30 hoặc giao dịch khác phù hợp với quy định về đại diện tại các điều 24, 25 và 26 của Luật này.
2. Vợ, chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật này.”
Căn cứ theo quy định tại Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 được trích dẫn ở trên thì vợ, chồng sẽ có nghĩa vụ liên đới, cùng liên đới chịu trách nhiệm đối với các giao dịch có thể do vợ chồng cùng nhau thực hiện hoặc do vợ, hoặc chồng thực hiện nhưng thuộc vào một trong các trường hợp được quy định tại Điều 24, 25, 26, khoản 1 Điều 30 và Điều 37 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Trong đó, các giao dịch được quy định tại Điều 24, 25, 26 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 là các giao dịch được thực hiện trên cơ sở sau:
– Giao dịch được thực hiện dựa trên việc đại diện của vợ chồng trong quan hệ ủy quyền hoặc dựa trên việc đại diện trong trường hợp vợ chồng là người giám hộ của nhau khi một trong các bên bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
– Giao dịch của vợ chồng được thực hiện trên cơ sở đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh chung.
– Giao dịch do vợ hoặc chồng đại diện cho hai vợ chồng xác lập, thực hiện và chấm dứt với người thứ ba có liên quan đến tài sản chung có giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên vợ hoặc chồng.
Còn giao dịch do một bên thực hiện được quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 được xác định là:
“Điều 30. Quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng trong việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình
1. Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.
2. Trong trường hợp vợ chồng không có tài sản chung hoặc tài sản chung không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng theo khả năng kinh tế của mỗi bên.”
Đồng thời, tại Điều 37 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng có quy định về nghĩa vụ chung của vợ, chồng như sau:
“Điều 37. Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng
Vợ chồng có các nghĩa vụ chung về tài sản sau đây:
1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;
2. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;
3. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
4. Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;
5. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;
6. Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.”
Xem xét trong trường hợp của bạn, khoản nợ 49 triệu và số tiền lãi có liên quan mà bạn vay mượn từ công ty tài chính được xác định là khoản tiền nợ mà do bạn một mình đứng ra thực hiện giao dịch, trực tiếp ký vào hợp đồng vay tiền, còn chồng bạn, có thể biết hoặc không biết về khoản nợ này nhưng không đứng ra ký tên trong hợp đồng vay tiền. Việc bạn ghi thông tin liên lạc của chồng vào hợp đồng vay tiền không phải là căn cứ xác định nghĩa vụ liên đới trả nợ của chồng bạn, cũng không thể hiện chồng bạn là người vay tiền.
Theo thông tin bạn cung cấp, bạn vay tiền và đã chuyển số tiền này vào tài khoản của chồng để chi tiêu cho việc làm ăn. Mặc dù trong thông tin bạn không nói rõ việc kinh doanh làm ăn này là do hai vợ chồng cùng góp vốn kinh doanh chung hay đây là công việc làm ăn riêng của chồng, vợ. Tuy nhiên, căn cứ theo quy định tại Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì thu nhập được tạo ra từ hoạt động sản xuất kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Do vậy, khi bạn vay mượn, chồng bạn không biết, không ký kết trực tiếp vào hợp đồng vay tiền, nhưng số tiền này được chuyển qua tài khoản của chồng bạn, để chi tiêu cho việc làm ăn, kinh doanh, để duy trì và phát triển công việc kinh doanh ấy, để tạo ra nguồn thu nhập sử dụng cho cuộc sống chung của vợ chồng, của gia đình. Đồng thời, trong quá trình vay nợ, chồng bạn và bạn đều cùng đóng góp để trả nợ hàng tháng, nên có thể xác định chồng bạn biết và thừa nhận số tiền vay nợ sử dụng vào mục đích chung của gia đình.
Từ những căn cứ được xác định ở trên, có thể khẳng định, do số tiền vay nợ được sử dụng để duy trì và phát triển công việc làm ăn kinh doanh, nhằm tăng thêm nguồn thu nhập đảm bảo cho cuộc sống của vợ chồng, của gia đình bạn nên cho dù việc vay nợ, chồng bạn không trực tiếp tham gia, toàn bộ giao dịch vay tiền do một mình bạn thực hiện thì chồng bạn vẫn phải có nghĩa vụ liên đới trong việc thanh toán khoản nợ này khi đến hạn theo căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 37, Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Do vậy, trường hợp khi công ty tài chính khởi kiện để yêu cầu bạn thực hiện nghĩa vụ trả nợ, thì chồng bạn cũng sẽ buộc tham gia với tư cách người có quyền và nghĩa vụ liên quan, và có nghĩa vụ liên đới trong việc trả khoản nợ này. Đồng thời khi ly hôn, trên cơ sở các quy định của pháp luật nêu trên, khoản nợ này vẫn được xác định là nợ chung của vợ chồng, và bạn có quyền yêu cầu Tòa án phân chia khoản nợ này khi ly hôn.
Ngoài ra, theo thông tin, hiện tại con bạn được 02 tuổi, nhưng người chồng không đóng góp tài sản, tiền bạc để nuôi con, cũng không thăm hỏi, chăm sóc con. Hai vợ chồng có đăng ký kết hôn, nhưng không tổ chức đám cưới. Có thể thấy, căn cứ theo quy định tại khoản 1, khoản 5 Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, việc đăng ký kết hôn giữa bạn và chồng bạn đã được xác định là căn cứ xác lập quan hệ hôn nhân giữa hai người. Việc không tổ chức đám cưới không phải là căn cứ để phủ nhận quan hệ hôn nhân của vợ chồng bạn. Đồng thời, khi đã có con thì căn cứ theo quy định tại Điều 71 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cha và mẹ đều có nghĩa vụ ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động. Do vậy, khi người chồng không chăm sóc con, cũng không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm lo cho con thì bạn có quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án can thiệp để giải quyết.
Như vậy, trong trường hợp việc vay tiền này do một mình bạn thực hiện giao dịch, chồng bạn không tham gia, cũng không biết về việc vay nợ nhưng số tiền này được sử dụng vào mục đích kinh doanh chung của gia đình, đồng thời cũng có thời gian chồng bạn cùng đóng góp để trả nợ thì trường hợp này, chồng bạn phải có nghĩa vụ liên đới trả khoản nợ này. Bạn cần căn cứ vào tình hình thực tế để giải quyết.
Bạn cũng có thể tham khảo thêm thông tin các dịch vụ tư vấn về luật hôn nhân và gia đình của chúng tôi:
- Tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình trực tuyến miễn phí qua điện thoại
- Luật sư tư vấn ly hôn, tư vấn giải quyết các tranh chấp khi ly hôn
- Luật sư tư vấn pháp luật hôn nhân gia đình qua email, bằng văn bản
- Tư vấn luật hôn nhân, tư vấn giải quyết ly hôn trực tiếp tại văn phòng
- Các dịch vụ Luật sư tư vấn - tranh tụng uy tín khác của Luật Dương Gia!
Trân trọng cám ơn!